Tìm kiếm en
  • Phản ánh hiện trường en
  • Chuyên mục en
    • Chính trị - Kinh tế
      • Kinh tế - Thị trường
      • Chính trị - Kinh tế
    • Văn hóa - Xã hội
      • Văn hóa - Xã Hội
      • Thời tiết - Thiên tai
      • Văn hóa, Du lịch
      • Chuyển đổi số
    • An ninh - Quốc phòng
      • Trật tự đô thị
      • Vi phạm giao thông
      • Vi phạm pháp luật
      • An ninh - Quốc phòng
    • Cơ sở hạ tầng
      • Cơ sở hạ tầng
      • Hạ tầng điện, viễn thông
      • Trật tự xây dựng
      • Kiểm tra - Giám sát
    • Y tế - Giáo dục
      • Vệ sinh an toàn thực phẩm
      • Thông tin dịch bệnh
      • Giáo dục - Y tế
      • Y tế
    • Môi trường
      • Vệ sinh môi trường
    • Thông tin
      • Thông tin
    • Khác
      • Lĩnh vực khác
      • Thống kê
  • Giới thiệu en
  • Hướn dẫn en
  • Bản đồ en
  • IOS Android
  • Đăng nhập en
  • Đăng ký en
IOS Android
  1. Trang chủ
  2. Tin mới en

Chuyển đổi số

Chuyển đổi số

Phổ cập bộ nhận diện Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024

Bộ Thông tin và Truyền thông vừa có văn bản gửi các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc phổ cập bộ nhận diện Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024.

Trung tâm xúc tiến thương mại hướng dẫn thanh toán không dùng tiền mặt trong triển khai mô hình chợ 4.0 tại Chợ Noong Bua, TP. Điện Biên Phủ (ảnh: Thảo Thảo)

Ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 505/QĐ- TTg về Ngày Chuyển đổi số quốc gia, theo đó lựa chọn ngày 10/10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Tỉnh Điện Biên cũng chọn ngày 10/10 là Ngày chuyển đổi số tỉnh Điện Biên.

Hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024  với chủ đề: "Phổ cập hạ tầng số và sáng tạo ứng dụng số để phát triển kinh tế số - Động lực mới cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động", Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng bộ nhận diện Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024 và đăng tải trên Cổng Chuyển đổi số quốc gia tại địa chỉ: https://dx.gov.vn.

Để Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024 có sức lan tỏa mạnh mẽ tới toàn xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị các bộ, ngành, địa phương phổ cập, truyền thông bộ nhận diện Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024 thông qua việc hiển thị bộ nhận diện trên Cổng thông tin điện tử tại cơ quan, địa phương, trên các bảng điện tử, màn hình công cộng thuộc sự quản lý, các trang web, ứng dụng di động của các bộ, ngành, địa phương và trên các báo điện tử của ngành, lĩnh vực, địa phương quản lý từ ngày 01-10/10/2024.

Đồng thời, đưa bộ nhận diện Ngày Chuyển đổi số quốc gia vào các ấn phẩm trực tuyến và trực tiếp tại các sự kiện hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024. Khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của cơ quan, địa phương hưởng ứng trên không gian mạng bằng cách thay ảnh đại diện có kèm khung hình nhận diện (avatar frame) Ngày Chuyển đổi số quốc gia từ ngày 1/10 đến hết ngày 10/10/2024 

Theo đó, Bộ thông tin và Truyền thông hướng dẫn cách thay ảnh đại diện có khung avatar (khung hình đại diện) để người dùng sử dụng nền tảng mạng xã hội thực hiện thay ảnh hưởng ứng, góp phần lan tỏa mạnh mẽ, rộng rãi hơn nữa về vai trò và ý nghĩa của Ngày Chuyển đổi số quốc gia.

Các bước thực hiện như sau: 

Phương án 1

Bước 1: Truy cập đường link mẫu avatar frame:

https://khunghinh.net/p/e6b5cc2b02720e47

Bước 2. Bấm "Chọn hình" ở phía dưới khung hình để tải ảnh lên.

Bước 3. Sau khi tải ảnh lên, kéo và di chuyển trực tiếp ảnh vào trong khung hình hoặc sử dụng thanh công cụ bên dưới để kéo và chỉnh hình ảnh sao cho vừa vặn hiển thị.

Bước 4. Sau khi đã căn chỉnh xong, chọn "Tiếp tục", sau đó chọn "Tải hình" (Ghi chú: Khi thanh tải chạy hết là bấm tải ảnh xuống).

Bước 5. Thay ảnh đại diện trên Zalo, Facebook và các nền tảng mạng xã hội bằng hình ảnh vừa tải xuống. Khuyến khích người dùng thực hiện gắn thẻ các Hashtag trên nội dung bài đăng thay ảnh: #ngaychuyendoisoquocgia #10102024.

Phương án 2

Bước 1: Truy cập đường link mẫu avatar frame:

https://khunghinh.net/p/e871acd137bceef0

Bước 2: Sử dụng các phần mềm offline chỉnh sửa ảnh chuyên sâu: Adobe Photoshop, Adobe Illustrator, ... hoặc các phần mềm online: Canva, Evoto, ... để chèn ảnh vào avatar frame.

Bước 3. Thay ảnh đại diện trên Zalo, Facebook và các nền tảng mạng xã hội bằng hình ảnh vừa tải xuống. Khuyến khích người dùng thực hiện gắn thẻ các Hashtag trên nội dung bài đăng thay ảnh: #ngaychuyendoisoquocgia #10102024.

                                                                                      Tin: Vũ Vũ

Thu hồi Tên định danh (brandname) vì phát tán tin nhắn, cuộc gọi rác

Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) mới đây đã thu hồi 6 tên định danh của một số doanh nghiệp quảng cáo vì đã có hành vi phát tán tin nhắn rác và cuộc gọi rác.

 
Thu hồi Tên định danh (brandname) vì phát tán tin nhắn, cuộc gọi rác - Ảnh 1.

Ảnh minh hoạ ( by AI )

Việc xử lý các đơn vị quảng cáo sử dụng tên định danh - brandname được cấp để phát tán tin nhắn, cuộc gọi rác là một trong những biện pháp đang được Bộ TT&TT thực hiện để bảo vệ người dùng dịch vụ viễn thông.

Ngày 14/8/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2020/NĐ-CP về chống tin nhắn rác, thư điện tử rác, cuộc gọi rác, trong đó quy định rõ việc sử dụng tên định danh trong hoạt động quảng cáo bằng tin nhắn, gọi điện thoại và trách nhiệm của Người quảng cáo khi sử dụng tên định danh để quảng cáo như:

Chỉ được gửi tin nhắn quảng cáo, gọi điện thoại quảng cáo khi đã được cấp tên định danh và không được phép sử dụng số điện thoại để gửi tin nhắn quảng cáo hoặc gọi điện thoại quảng cáo Không được phép gửi tin nhắn quảng cáo, gọi điện thoại quảng cáo đến các số điện thoại nằm trong Danh sách không quảng cáo Chỉ được phép gửi tin nhắn quảng cáo, gọi điện thoại quảng cáo đến người sử dụng khi được người sử dụng đồng ý trước về việc nhận quảng cáo...

Thực tế cho thấy, qua quá trình theo dõi, quản lý và vận hành "Hệ thống tiếp nhận phản ánh tin nhắn rác, cuộc gọi rác qua đầu số 5656/156", trong nửa đầu năm nay, Cục An toàn thông tin đã tiếp nhận 479.398 phản ánh của người sử dụng, trong đó có 1.493 phản ánh liên quan đến tên định danh, chiếm 0,35% trên tổng số phản ánh tiếp nhận được. Như vậy, ước tính mỗi tháng có gần 250 phản ánh liên quan đến tên định danh.

Trên cơ sở đó, Cục An toàn thông tin đã làm việc với 40 đơn vị sở hữu tên định danh bị phản ánh, đã có 32 đơn vị phải giải trình và thừa nhận sai phạm, sau đó đã có 21/32 đơn vị thực hiện khắc phục các vi phạm này. 

Vi phạm của các đơn vị là gửi tin nhắn, gọi điện quảng cáo vào các số thuê bao nằm trong danh sách không quảng cáo; gửi tin nhắn, gọi điện quảng cáo khi chưa có sự đồng ý trước của người nhận.

Căn cứ theo nội dung làm việc với các đơn vị sở hữu tên định danh, Cục An toàn thông tin đã thu hồi 6 tên định danh được sử dụng để phát tán tin nhắn rác, cuộc gọi rác bao gồm 4 tên định danh DVKH-247, CSKH-247, CSKH.24H, DVKH24H của Công ty cổ phần Giải pháp CNTT quốc tế ITS và 2 tên định danh PMCARD, CTPMC của Công ty cổ phần Power Membership Card.

Cùng với đó, Cục An toàn thông tin cũng đã chuyển hồ sơ của 2 đơn vị vi phạm khác là Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng và Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ và Truyền thông Suntech sang Thanh tra Bộ TT&TT để xác minh, xử lý vi phạm hành chính.

Ngoài ra, Cục ATTT đã tiến hành thông báo nhắc nhở việc tuân thủ các quy định về trách nhiệm của người quảng cáo đã được gửi tới tất cả cá nhân, tổ chức đã được cấp tên định danh. Các tổ chức, cá nhân mới được cấp chứng nhận tên định danh cũng được gửi kèm thông báo về những nội dung cần biết liên quan đến trách nhiệm của người quảng cáo khi sử dụng tên định danh để quảng cáo cùng thông tin mức phạt nếu vi phạm.

Cục An toàn thông tin nhận thấy, đã có những chuyển biến tích cực sau khi cơ quan chức năng tổ chức làm việc và có biện pháp xử lý với những cá nhân, tổ chức quảng cáo có hành vi vi phạm khi sử dụng tên định danh. Theo thống kê, số lượng phản ảnh hợp lệ liên quan đến tên định danh gửi về "Hệ thống tiếp nhận phản ánh tin nhắn rác, cuộc gọi rác" trong thời gian từ 19/7 – 18/8 là 138 phản ánh hợp lệ, giảm khoảng 45% so với trung bình phản ánh các tháng trước.

Về định hướng tới gian tới, song song với việc tiếp tục theo dõi, giám sát tình hình sử dụng tên định danh của các cá nhân, tổ chức, Cục An toàn thông tin xác định sẽ phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Thanh tra Bộ TT&TT để xử lý, xử phạt nghiêm các tổ chức/cá nhân có hành vi vi phạm quy định về tin nhắn rác, cuộc gọi rác nói chung và sử dụng tên định danh trong hoạt động quảng cáo nói riêng.

Cục An toàn thông tin khuyến cáo, để tránh bị làm phiền từ các tin nhắn/cuộc gọi quảng cáo sử dụng Brandname, người sử dụng có thể đăng ký vào danh sách không quảng cáo (DNC) theo các cách sau:

*) Qua SMS

– Để đăng ký, soạn tin nhắn theo cú pháp: DNC gửi 5656

– Để hủy đăng ký soạn tin nhắn theo cú pháp: HUY DNC gửi 5656

(Tất cả các tin nhắn gửi tới đầu số 5656 là miễn phí)

*) Qua website

Truy cập website: https://khongquangcao.ais.gov.vn/

Bước 1: Nhập số thuê bao muốn đăng ký không nhận tin nhắn, cuộc gọi rác

– Chọn ĐĂNG KÝ để thực hiện đăng ký vào danh sách không quảng cáo

– Chọn HỦY ĐĂNG KÝ để thực hiện rút khỏi danh sách không quảng cáo

Bước 2: Nhập mã OTP mà hệ thống gửi tin nhắn về cho thuê bao

Bước 3: Hệ thống thông báo kết quả xử lý./.

 
Thảo Anh

Đủ 24 tháng kể từ ngày thôi giữ chức vụ mới được thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp đối với người từng giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc phạm vi quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông

Ngày 30/08/2024, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư 09/2024/TT-BTTTT sẽ có hiệu lực kể từ ngày 15/10/2024 Quy định danh mục các lĩnh vực và thời hạn người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã sau khi thôi giữ chức vụ thuộc phạm vi quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Theo đó, Danh mục các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông bao gồm: Báo chí; Xuất bản, in và phát hành; Phát thanh, truyền hình; Thông tin điện tử; Thông tin đối ngoại; Thông tin cơ sở; Bưu chính; Viễn thông; Tần số vô tuyến điện; Công nghiệp công nghệ thông tin; Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; An toàn thông tin mạng; Giao dịch điện tử; Quản lý doanh nghiệp nhà nước do Bộ Thông tin và Truyền thông làm đại diện chủ sở hữu; Chương trình, đề án, dự án thuộc các lĩnh vực nêu trên.
Lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông cùng khách mời tham quan Triển lãm “ Ngày Sách và Văn Hoá Việt Nam 2023”
 
Đối với người không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, thời hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã trong lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý thuộc danh mục quy định tại Thông tư này là đủ 12 tháng kể từ ngày thôi quyền hạn theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Đối với người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, thời hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã trong lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý thuộc danh mục quy định tại Thông tư này là đủ 24 tháng kể từ ngày thôi giữ chức vụ theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

Tác giả: Tin-ảnh: Nguyễn Thương

Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài viết: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.

 

Cổng TTĐT Bộ TT&TT trân trọng giới thiệu nội dung bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm.

“Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” - Ảnh 1.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Chương trình kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024) - Ảnh: TTXVN

1. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển lực lượng sản xuất và từng bước cải tạo, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra qua nhiều giai đoạn, phản ánh sự vận động và phát triển không ngừng của Cách mạng Việt Nam.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra trang sử mới cho sự phát triển của dân tộc trong điều kiện đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Xuất phát điểm từ nền nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm thực dân đô hộ, Đảng ta đã thực hiện chính sách “người cày có ruộng” nhằm trao ruộng đất về tay nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hướng tới việc cải tạo quan hệ sản xuất, tạo tiền đề xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn 1954 - 1975, cách mạng nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, lấy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới dựa trên ba trụ cột: chế độ công hữu, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động [1], đã đưa lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc.

Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra chương mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng năm 1976 trên cơ sở đánh giá đặc điểm lớn của đất nước đó là, từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đã đề ra đường lối: kiên định chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quyết tâm tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng văn hóa [2]. Trong đó, cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm.

Từ năm 1979 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nước ta đã trải qua những khủng hoảng nghiêm trọng, một phần nguyên nhân do sự thiếu đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất [3]. Từ nhận thức đúng đắn đó, Đại hội VI của Đảng đã quyết tâm tiến hành đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bao cấp, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị là bước đột phá về đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp khi chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và trao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất [4]. Chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực triền miên đã sản xuất được 21,5 triệu tấn lúa và lần đầu tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất phù hợp đã tạo động lực mới cho lực lượng sản xuất phát triển, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế.

“Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” - Ảnh 2.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm

2. Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các chính sách điều hành linh hoạt, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đời sống Nhân dân được cải thiện đáng kể.

Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao.

Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số tạo ra biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất, dẫn đến những mâu thuẫn mới với quan hệ sản xuất hiện hữu; vừa tạo tiền đề, động lực hình thành phương thức sản xuất mới trong tương lai, vừa đòi hỏi thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất và quản lý xã hội. Lực lượng sản xuất mới đang hình thành và phát triển mạnh mẽ; song chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong khi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực công nghệ cao, vẫn là thách thức lớn. Quan hệ sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong đó, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu.

Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để.

Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.

Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta nhận thức rõ rằng, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải không ngừng được điều chỉnh để phù hợp với trình độ ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của toàn bộ phương thức sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.

3. Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

“Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” - Ảnh 3.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân đón các đại sứ, đại biện, trưởng đại diện các tổ chức quốc tế đến dự lễ kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: Quảng Phúc)

Sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội. Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới. Muốn vậy, người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số; đồng thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội, đẩy nhanh hiện đại hóa. Có cơ chế, chính sách phù hợp huy động nguồn lực to lớn trong Nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; nguồn lực từ đất đai, tài sản trong xã hội mà người dân đang tích luỹ, biến những tiềm năng này thành động lực, tư liệu sản xuất, để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.

Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi mới. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Trong quá trình cải cách, bám sát nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Việc tinh gọn bộ máy phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”.

TÔ LÂM

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Công nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ công nghệ

Các quốc gia chỉ có thể có niềm tin số khi công nghệ họ sử dụng là công nghệ mở. Công nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ công nghệ mà mình sử dụng.

Báo VietNamNet xin giới thiệu tới độc giả bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng tại Vietnam Open Summit 2020 được tổ chức vào tháng 11/2020. Bài viết vẫn còn nguyên tính thời sự khi đề cập đến mã nguồn mở, trong điều kiện các quốc gia trên thế giới đều mong muốn làm chủ công nghệ mà mình sử dụng như hiện nay.
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Lê Anh Dũng

Công nghệ thông tin, công nghệ số đã, đang và sẽ thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, sẽ trở thành không khí thở của chúng ta. Và vì thế, nó phải rẻ như không khí. Và cách để đạt được điều đó là công nghệ mở. Công nghệ mở không chỉ là mã nguồn mở, mà còn là kiến trúc mở và chuẩn mở. Và đi cùng công nghệ mở là văn hoá mở. Tất cả chúng ta cùng đóng góp phát triển công nghệ, cùng chia sẻ sử dụng công nghệ. Và vì thế mà giá công nghệ sẽ rẻ đi.

Các quốc gia chỉ có thể có niềm tin số khi công nghệ họ sử dụng là công nghệ mở. Công nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ công nghệ mà mình sử dụng.Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Công nghệ thông tin, công nghệ số đã trở thành nền tảng của KT-XH. Cuộc di chuyển vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại là cuộc di chuyển từ thế giới thực sang thế giới ảo. Nhưng tất cả các quốc gia đều lo lắng về an ninh mạng. Niềm tin số trở thành yếu tố quyết định cho sự thành công của cuộc di chuyển này. Các quốc gia chỉ có thể có niềm tin này khi công nghệ họ sử dụng là công nghệ mở. Công nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ công nghệ mà mình sử dụng. Không còn như trước đây, chúng ta mua một ‘Black Box’ từ một quốc gia khác và phó mặc số phận của quốc gia mình cho một quốc gia khác. Hiện nay, nhiều quốc gia đã tuyên bố chỉ mua công nghệ khi công nghệ là mở, nhất là khi các công nghệ đó dùng để xây dựng các hạ tầng nền tảng quốc gia. Việt Nam phát triển công nghệ 5G dựa trên chuẩn mở Open RAN. Mạng 5G Việt Nam cũng sẽ dùng chuẩn mở.

Sự sáng tạo vĩ đại nhất là sự sáng tạo của toàn dân. Và cũng chính sự sáng tạo này mới có thể giải quyết các vấn đề, các bài toán của từng cá nhân, từng tổ chức nhỏ và của từng quốc gia. Không một công ty nào, một tập đoàn đa quốc gia nào, dù qui mô to đến đâu, có thể giải quyết mọi bài toán, đáp ứng mọi nhu cầu thay đổi. Không ai có thể hiểu bài toán, vấn đề của mình hơn chính mình và vì thế, chúng ta sẽ là người tốt nhất để giải bài toán của mình. Sự sáng tạo toàn dân chỉ có thể xảy ra khi công nghệ là mở. Công nghệ mở sẽ khai phóng năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân. Mỗi người đứng trên vai những người khác để phát triển, và từ đó tạo ra một mặt bằng cao hơn cho những người khác nữa. Trong đại dịch covid-19, rất nhiều ứng dụng số Việt Nam, trong đó có Bluezone, CoMeet, v.v... đã được mở mã nguồn hoặc phát triển rất nhanh trên nền nguồn mở, đáp ứng các nhu cầu rất Việt Nam, góp phần chống dịch và đưa cuộc sống lên trạng thái bình thường mới.

Mở để phát triển và làm chủ công nghệ. Ảnh chụp màn hình

Dữ liệu là dầu mỏ. Trong tương lai, hầu hết các giá trị sẽ được tạo ra từ dữ liệu. Càng nhiều dữ liệu, nhất là càng nhiều loại dữ liệu khác nhau thì cơ hội tạo ra giá trị mới càng lớn. Người có dữ liệu và người tạo ra giá trị mới từ dữ liệu đó trong nhiều trường hợp không phải là một. Bởi vậy việc mở dữ liệu và dữ liệu mở là quyết định trong việc tạo ra giá trị mới cho người dân, cho đất nước. Bộ TTTT đã ra mắt cổng quốc gia về mở dữ liệu data.gov.vn và hiện đã có trên 10.000 bộ dữ liệu.

Việc mở dữ liệu và dữ liệu mở là quyết định trong việc tạo ra giá trị mới cho người dân, cho đất nước. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Nghiên cứu sản xuất thiết bị dựa trên công nghệ mở sẽ cho phép các doanh nghiệp công nghệ hợp tác, kết hợp sức mạnh của nhau để đi nhanh hơn, chuyên sâu hơn để công nghệ xuất sắc hơn. Việt Nam là nước thứ 5 trên thế giới làm chủ thiết bị 5G, mặc dù xuất phát của chúng ta là thấp, rất ít người, cả trong nước và nước ngoài, tin rằng Việt Nam có thể làm được. Hai doanh nghiệp công nghệ lớn của đất nước là Viettel và VinGroup, sau một thời gian độc lập phát triển công nghệ 5G, dưới sự chỉ đạo của Bộ TT&TT đã thống nhất hợp tác phát triển 5G theo chuẩn mở Open RAN. VinGroup tập trung làm phần vô tuyến - phần cứng, Viettel tập trung làm phần xử lý tín hiệu - phần mềm, và tích hợp thành sản phẩm thương mại. Sự hợp tác này đã đẩy nhanh tiến độ làm chủ thiết bị, cũng như kết hợp thế mạnh công nghệ của nhau để có được thiết bị 5G cạnh tranh quốc tế. Ngoài ra, sự kết hợp này cũng cộng lại thị trường của hai tập đoàn để tạo ra một thị trường lớn hơn. Trong nghiên cứu sản xuất thiết bị công nghệ cao thì thị trường có vai trò không kém gì công nghệ.

Với một nước đi sau như Việt Nam chúng ta mà muốn đi trước thì phải đứng trên vai những người khác. Việc lựa chọn phát triển công nghệ mở, lựa chọn phát triển phần mềm nguồn mở, lựa chọn mở dữ liệu để các cá nhân, doanh nghiệp tham gia sáng tạo giá trị mới là định hướng của chúng ta. Với định hướng này, Việt Nam sẽ phát triển thành quốc gia công nghệ, dựa trên và thừa hưởng tri thức nhân loại nhưng cũng đóng góp cho tri thức nhân loại.

Mở để phát triển và làm chủ công nghệ Việt Nam, để Make in Vietnam. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Vietnam Open Summit lần thứ nhất là cam kết của Việt Nam về phát triển và làm chủ công nghệ số dựa trên chuẩn mở. Không chỉ là cam kết mà đây còn là chiến lược của chúng ta: Mở để phát triển và làm chủ công nghệ Việt Nam, để Make in Vietnam. Không chỉ là chiến lược mà đây còn là chương trình hành động của chúng ta. Mỗi cơ quan, doanh nghiệp hãy nhận lấy cho mình một công việc và cam kết hành động. Cơ quan nhà nước hãy hành động để xây dựng chính sách, chiến lược. Doanh nghiệp hãy hành động để phát triển các nền tảng. Các cơ sở đào tạo hãy hành động để nuôi dưỡng và phát triển cộng đồng mở. 

Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến

Chỉ rõ 1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, "4 không" và "5 tăng cường" trong triển khai dịch vụ công trực tuyến thời gian tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh mục tiêu tạo thuận lợi nhất, phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính, người dân chỉ cung cấp thông tin một lần cho các cơ quan nhà nước.

 
Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến - Ảnh 1.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị trực tuyến toàn quốc chuyên đề nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến

Sáng 31/8/2024, tại Đà Nẵng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc chuyên đề nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, đã tham dự Hội nghị.

Hội nghị được kết nối trực tuyến từ điểm cầu chính tại Trung tâm Hành chính công thành phố Đà Nẵng tới UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Cùng tham dự hội nghị tại các điểm cầu có đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Thượng tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn; 9 đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Bước vào giai đoạn phát triển dịch vụ công trực tuyến theo chiều sâu

Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam đã trải qua 2 giai đoạn phát triển về dịch vụ công trực tuyến tính từ năm 2011 đến nay. Trong đó, giai đoạn 1 là giai đoạn khởi động khi số lượng dịch vụ công trực tuyến mức cao được triển khai rất ít trên phạm vi cả nước; giai đoạn 2 là giai đoạn phát triển theo chiều rộng, khi có bước phát triển đột phá về số lượng dịch vụ công trực tuyến.

Việc triển khai dịch vụ công trực tuyến đã có thành công nhưng không đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương, bên cạnh những đơn vị đạt kết quả cao, vẫn còn nhiều đơn vị đạt kết quả rất thấp, đặc biệt là hồ sơ trực tuyến toàn trình. Một số địa phương đạt tỷ lệ rất cao lên tới 69%, tuy nhiên vẫn còn nhiều địa phương đạt tỷ lệ rất thấp dưới 5%, trung bình khối địa phương mới chỉ đạt 17,9%.

Dịch vụ công trực tuyến toàn trình mang lại hiệu quả thực sự khi mà người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện đơn giản, thuận tiện toàn bộ quy trình trên môi trường mạng và không phải hiện diện tại cơ quan Nhà nước, thể hiện thông qua tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình.

Để bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, cần tập trung vào phổ cập dịch vụ công trực tuyến toàn trình tới mọi người dân, doanh nghiệp, mục tiêu đặt ra là tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt 70%.

Việc phổ cập dịch vụ công trực tuyến toàn trình sẽ đưa mọi hoạt động của công chức, viên chức phục vụ người dân và doanh nghiệp lên môi trường mạng. Khi đó, các cơ quan nhà nước có đầy đủ dữ liệu số để chỉ đạo, điều hành trực tuyến và dựa trên dữ liệu.

Việc hoàn thành phổ cập dịch vụ công trực tuyến toàn trình, Việt Nam sẽ hoàn thành nhiệm vụ phát triển Chính phủ điện tử, chuyển sang phát triển Chính phủ số.

Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến - Ảnh 2.

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, để triển khai dịch vụ công trực tuyến trong giai đoạn mới, phát triển theo chiều sâu, thực chất là phổ cập dịch vụ công trực tuyến theo hướng trực tuyến toàn trình, các bộ, ngành, địa phương cần đạt mục tiêu phát triển dịch vụ công trực tuyến toàn trình ngay trong năm 2024 và đến năm 2025.

Cụ thể, năm 2024, với các bộ, ngành: tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt tối thiểu 70%; đối với các địa phương: đạt tối thiểu 30%. Năm 2025, đối với các bộ, ngành: tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt tối thiểu 85%; đối với các địa phương: đạt tối thiểu 70%.

Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến - Ảnh 3.

Quang cảnh Hội nghị chuyên đề Nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến tổ chức tại Đà Nẵng vào sáng 31-8

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản thống nhất với nội dung các báo cáo, tham luận, ý kiến phát biểu, giao Bộ Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến, hoàn thiện và trình thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số để thống nhất triển khai trong thời gian tới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phân tích, nhấn mạnh thêm một số nội dung trọng tâm về cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý; những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế; nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; quan điểm, định hướng và các nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới trong triển khai dịch vụ công trực tuyến.

Về cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nêu rõ: "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành chính công để tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp".

Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đề ra các mục tiêu đến năm 2025: "Xây dựng hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã… Thuộc nhóm bốn nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên Hợp Quốc…".

Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến - Ảnh 4.

Thủ tướng chỉ ra 8 nhóm kết quả nổi bật cũng như những tồn tại, hạn chế, bất cập trong triển khai dịch vụ công trực tuyến

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030. Thủ tướng đã ban hành các chiến lược, chương trình về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số.

8 nhóm kết quả nổi bật

Về những kết quả đạt được, Thủ tướng nêu rõ, thứ nhất là công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện được triển khai quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm cao từ Trung ương đến cơ sở.

Từ năm 2021 đến nay, Thủ tướng Chính phủ ban hành 9 quyết định, 5 chỉ thị chỉ đạo, điều hành để triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp. 63/63 địa phương đã ban hành chính sách miễn, giảm phí, lệ phí trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến.

Thứ hai, nhận thức và hành động về nâng cao chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng trong thực hiện thủ tục hành chính (TTHC), cung cấp dịch vụ công trực tuyến có nhiều chuyển biến tích cực. Mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết TTHC tăng từ 90% năm 2022 lên 93% đến tháng 8/2024.

Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc năm 2022, dịch vụ công trực tuyến của Việt Nam xếp hạng 76/193, tăng 5 bậc so với năm 2020; dữ liệu mở xếp hạng 87/193, tăng 10 bậc so với năm 2020.

Thứ ba, công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho cung cấp dịch vụ công trực tuyến, số hóa được triển khai tích cực. Quốc hội đã ban hành Luật Giao dịch điện tử; Chính phủ đã ban hành 06 Nghị định; các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền 04 thông tư.

Thứ tư, TTHC, quy định kinh doanh tiếp tục được cắt giảm, đơn giản hóa; số lượng và chất lượng dịch vụ công trực tuyến được nâng lên.

Thực hiện "1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường” trong triển khai dịch vụ công trực tuyến - Ảnh 5.

Phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan, Thủ tướng chỉ ra một số bài học kinh nghiệm

Từ năm 2021 đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 3.000 quy định kinh doanh; phân cấp cho địa phương gần 700 TTHC. Từ năm 2021 đến nay, đã cung cấp thêm gần 1.800 dịch vụ công trực tuyến, đạt 4.400 dịch vụ công trực tuyến cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, chiếm 70% tổng số TTHC.

Tỉ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình tăng từ 28% năm 2021 lên 51,5% vào tháng 8/2024. Đặc biệt, đã triển khai 43/53 dịch vụ công trực tuyến thiết yếu; trong đó, 23/25 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án 06 đã được thực hiện toàn trình, giúp tiết kiệm cho Nhà nước, xã hội gần 3,5 nghìn tỷ đồng/năm.

Tỉ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC tại các bộ, ngành đạt 43,4% (tăng 23% so với năm 2023), của địa phương đạt 64,3% (tăng 35% so năm 2023).

Thứ năm, hạ tầng số, nền tảng số, thiết bị, công nghệ chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp được quan tâm đầu tư.

100% cơ quan nhà nước đã được triển khai mạng Truyền số liệu chuyên dùng đến cấp xã để trao đổi, chia sẻ dữ liệu. 100% bộ, ngành, địa phương đã xây dựng, nâng cấp Hệ thống thông tin giải quyết TTHC. Có 82,2% hộ gia đình sử dụng Internet cáp quang băng rộng; 84% thuê bao điện thoại di động sử dụng điện thoại thông minh.

Thứ sáu, các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai xây dựng, kết nối, chia sẻ.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối, chia sẻ, xác thực, làm sạch dữ liệu với 18 bộ, ngành, 63 địa phương, 04 doanh nghiệp nhà nước. Cấp trên 87,7 triệu thẻ căn cước gắn chíp; kích hoạt trên 57,1 triệu tài khoản VNeID.

Thứ bảy, một số bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực đổi mới, thực hiện các mô hình, giải pháp hữu hiệu trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp như các Bộ: Công an, Tài chính, Công Thương; các địa phương như: Đà Nẵng, Quảng Ninh, Cà Mau, Tây Ninh... Cần hoan nghênh, học tập các bộ, địa phương này, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ tám, tích cực triển khai Cơ chế một cửa ASEAN, một cửa quốc gia, tạo thuận lợi thương mại sẵn sàng thực hiện hải quan số. Việt Nam đang triển khai kết nối và trao đổi tờ khai hải quan ASEAN với 8 nước thành viên ASEAN; tạo tiền đề để tiếp tục kết nối với Hàn Quốc, Liên bang Nga, New Zealand.

Cơ chế một cửa quốc gia đã cung cấp 250 TTHC của 13 bộ, ngành kết nối với sự tham gia của trên 70.000 doanh nghiệp; hàng triệu bộ hồ sơ hành chính được xử lý trên môi trường điện tử, rút ngắn thời gian và giảm chi phí thông quan.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được của các bộ, ngành, địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số; sự đồng lòng, ủng hộ và tham gia tích cực của người dân, cộng đồng doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, việc triển khai dịch vụ công trực tuyến còn những tồn tại, hạn chế, bất cập. Việc xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách cần làm tốt hơn. Cải cách TTHC vẫn còn chậm, thủ tục còn rườm rà.

Chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến chưa chuyển biến rõ nét; kết quả thực hiện dịch vụ công trực tuyến không đồng đều giữa các cơ quan, đơn vị. Nhiều dịch vụ công trực tuyến chưa được người dân, doanh nghiệp sử dụng nhiều hoặc chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp toàn trình. Tỉ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình phát sinh hồ sơ của địa phương mới đạt 17%, mục tiêu đến năm 2025 là tối thiểu 80%. Việc tái sử dụng dữ liệu để người dân chỉ cung cấp thông tin 1 lần còn thấp.

Triển khai Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp tỉnh và Cổng dịch vụ công quốc gia còn nhiều bất cập. Chưa có nhiều cơ quan quản lý nhà nước triển khai TTHC nội bộ trên môi trường điện tử. Nhân lực số, hạ tầng số chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa có đột phá. Tình hình hoạt động tấn công mạng, đặc biệt là mã độc tống tiền tăng mạnh. Công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận trong xã hội nhằm thúc đẩy dịch vụ công trực tuyến và triển khai Đề án 06 nhiều lúc, nhiều nơi chưa được coi trọng.

Phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan, Thủ tướng chỉ ra một số bài học kinh nghiệm. Theo đó, người đứng đầu phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, khen thưởng, kỷ luật kịp thời; đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính.

"Thực tiễn cũng cho thấy "không có gì là không thể", vấn đề là có quyết tâm làm, có biết cách làm, cách huy động nguồn lực, sức mạnh của người dân và doanh nghiệp, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị hay không. Tinh thần là "chỉ bàn làm, không bàn lùi", "không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm", "đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, đã bàn là phải thông, đã ra quân là chiến thắng"", Thủ tướng nêu rõ.

Người dân chỉ cung cấp thông tin một lần cho các cơ quan nhà nước

Về quan điểm, định hướng thời gian tới, Thủ tướng khẳng định chuyển đổi số có vai trò rất quan trọng, góp phần thay đổi phương thức lãnh đạo, chỉ đạo trong tình hình mới, phù hợp, hiệu quả, nâng cao năng lực phản ứng chính sách.

Thủ tướng chỉ rõ 1 mục tiêu, 2 trụ cột, 3 đột phá, 4 không và 5 tăng cường trong triển khai dịch vụ công trực tuyến.

1 mục tiêu chung là cắt giảm chi phí tuân thủ, thời gian thực hiện, tạo thuận lợi và phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp.

2 trụ cột gồm: Kiên quyết cắt giảm thủ tục hành chính nội bộ và tạo thực hiện thuận lợi dịch vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp.

3 đột phá là pháp lý hóa; số hóa; tự động hóa.

"4 không" là: Không giấy tờ; không tiền mặt; không tiếp xúc nếu pháp luật không quy định; không để ai bị bỏ lại phía sau.

"5 tăng cường" gồm: (1) Tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi, quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, từng cấp, từng ngành và tăng cường giám sát, kiểm tra; (2) Tăng cường công khai, minh bạch, đơn giản hóa TTHC gắn với tích hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu; (3) Tăng cường đầu tư hạ tầng số; (4) Tăng cường đối thoại, xử lý vướng mắc phát sinh; đẩy mạnh kỷ luật, kỷ cương, đẩy lùi tiêu cực; (5) Tăng cường kiến thức, kỹ năng số, phát triển nhân lực số đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thời gian tới, Thủ tướng trước hết yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải chủ động, tích cực triển khai các nhiệm vụ , nhất là phát huy vai trò người đứng đầu trong triển khai dịch vụ công trực tuyến.

Thứ hai, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, trong đó rà soát, phát hiện, kịp thời sửa đổi, bổ sung những bất cập, mâu thuẫn trong hệ thống các quy định và văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn trên tinh thần cái gì thực tiễn đặt ra, đòi hỏi, yêu cầu, đã chín, đã rõ thì phải sửa đổi, bổ sung, thiết kế thành quy định để tạo hành lang pháp lý trong triển khai, thực hiện nhằm tháo gỡ "điểm nghẽn", thúc đẩy, khơi thông mọi nguồn lực, phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội. "Chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh", Thủ tướng nêu rõ.

Cắt giảm, đơn giản hóa tối đa các quy định kinh doanh, TTHC; cương quyết xóa bỏ cơ chế xin-cho; tạo môi trường công khai, minh bạch, trong sạch để cán bộ không mắc phải những sai phạm; tích cực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực;

Đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ (cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 50% TTHC và cắt giảm ít nhất 50% chi phí tuân thủ TTHC nội bộ) và chuyển đổi mạnh mẽ sang xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử. Khẩn trương phân quyền cho các địa phương thực hiện các TTHC. Sớm trình ban hành đầy đủ các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Giao dịch điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì).

Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về TTHC liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh; người và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh theo hướng sử dụng hồ sơ hành chính dưới dạng dữ liệu số.

 

Thứ ba, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến.

Rà soát, đánh giá lại, đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến, bảo đảm đáp ứng yêu cầu về mức độ, thuận lợi, đơn giản, thân thiện với người dùng.

Đẩy mạnh tái cấu trúc quy trình, thiết kế, cung cấp các dịch vụ công trên cơ sở cắt giảm, đơn giản hóa tối đa TTHC, tái sử dụng dữ liệu, liên thông điện tử. Thực hiện thành công các nhiệm vụ đến năm 2025, 100% TTHC đủ điều kiện được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến toàn trình; tối thiểu 80% hồ sơ TTHC được xử lý hoàn toàn trực tuyến. Hoàn thành cung cấp toàn bộ 53/53 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án 06.

Sớm có nghiên cứu đánh giá, mở rộng việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với các dịch vụ sự nghiệp công, dịch vụ công ích để hoàn thiện hệ sinh thái trên môi trường điện tử cho người dân, doanh nghiệp.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công và Bộ phận một cửa các cấp, trở thành các điểm số hóa, cung cấp các dịch vụ công phi địa giới hành chính, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong chuyển đổi số, nhất là các đối tượng yếu thế.

Thứ tư, đẩy mạnh số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC; xây dựng, hoàn thành, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; tăng cường kết nối, chia sẻ, tái sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công theo hướng người dân chỉ cung cấp thông tin một lần cho các cơ quan nhà nước.

Tăng cường đàm phán với các đối tác thương mại của Việt Nam để công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, quy chuẩn kèm theo việc trao đổi thông tin, công nhận lẫn nhau đối với dữ liệu/chứng từ thương mại, chứng từ hành chính điện tử.

Thứ năm, tiếp tục quan tâm, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phục vụ chuyển đổi số quốc gia thông suốt, hiệu quả. Tập trung xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia theo đúng Nghị quyết 175 của Chính phủ. Tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, tỉnh, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chuyển đổi số. Khẩn trương xóa các điểm lõm sóng, lõm điện. Tăng cường đầu tư máy móc, trang thiết bị, công nghệ đáp ứng tốt nhu cầu công tác.

Thứ sáu, tiến hành tổng rà soát, đánh giá tình hình bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng đối với các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý theo hướng dẫn của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông.

Thứ bảy, đổi mới, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương hoàn thiện, trình ban hành Đề án "Tuyên truyền, phổ biến về cung cấp và sử dụng hiệu quả dịch vụ công trực tuyến đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" trong tháng 9/2024.

"Điều quan trọng nhất là tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của chuyển đổi số với phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu phải quán triệt tinh thần gương mẫu, đi đầu, lãnh đạo, chỉ đạo thực sự sát sao, tổ chức thực hiện thực sự hiệu quả, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, khen thưởng, kỷ luật kịp thời trong công tác này", Thủ tướng Chính phủ phát biểu và tin tưởng sau Hội nghị này, việc cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến sẽ tiếp tục có chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn, đạt kết quả quý sau cao hơn quý trước, năm sau cao hơn năm trước./.

Giảng dạy AI tại Việt Nam phải chú trọng thúc đẩy việc ứng dụng, giúp Việt Nam đi đầu về ứng dụng AI

Khoa AI của Học viện BCVT muốn xuất sắc thì phải có một triết lý khác biệt và xuất sắc về đào tạo AI. Khoa AI của Học viện phải lọt vào top 100 thế giới về ứng dụng AI.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu khai trương Khoa AI tại Học viện Công nghệ BCVT. Ảnh: Lê Anh Dũng

Hôm nay (28/8), tôi rất vui mừng tham dự Lễ ra mắt Khoa Trí tuệ nhân tạo (AI) thuộc Học viện Công nghệ BCVT, khoa trí tuệ nhân tạo đầu tiên ở Việt Nam. Tôi xin được gửi lời chúc mừng các đồng chí Lãnh đạo Học viện, Lãnh đạo Khoa AI và các thầy cô giáo, các em sinh viên Học viện vì sự kiện quan trọng và có ý nghĩa này. Chúc tập thể Khoa Trí tuệ nhân tạo sẽ gặt hái được nhiều thành công và góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển lĩnh vực AI của Việt Nam.

Học viện mà muốn thay đổi thứ hạng thì phải đi đầu về cái mới, nhất là trong lĩnh vực công nghệ số (CNS). Đi đầu, tiên phong về CNS sẽ giúp cho Học viện tiến lên trong nhóm đại học dẫn đầu ở Việt Nam. Học viện phải coi đi đầu về cái mới là sức mạnh cạnh tranh cốt lõi của mình.

AI là công nghệ chính của các công nghệ số, cũng là công nghệ chính của CMCN lần thứ tư. AI sẽ như điện của CMCN lần thứ hai, nó sẽ có mặt trong mọi mặt, mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Học viện thành lập khoa AI đầu tiên tại Việt Nam, cũng như đã thành lập ngành Fintech đầu tiên tại Việt Nam, cũng như lần đầu tiên tổ chức đào tạo đại học online cho người công nhân, vừa đi học vừa đi làm. Và sắp tới, Học viện sẽ thành lập Viện lãnh đạo và quản lý Việt Nam, đây cũng sẽ là viện loại này đầu tiên ở Việt Nam, tập trung nghiên cứu, giảng dạy về lãnh đạo và quản trị các tổ chức, vừa theo xu thế thời đại, vừa theo cách Việt Nam, phù hợp với thực tiễn, triết lý và văn hoá Việt Nam. Như vậy, tinh thần đi đầu của Học viện đã dần trở thành giá trị cốt lõi của Học viện.

AI đang tiến hoá nhanh, sẽ còn nhiều thay đổi, bởi vậy, chương trình đào tạo cần được cập nhật liên tục. Học viện phải theo sát tình hình quốc tế, các chương trình giảng dạy về AI của các đại học trên thế giới. Chương trình giảng dạy AI của học viện phải sát với chương trình của các đại học hàng đầu thế giới. AI là mới với tất cả các nước, Việt Nam không phải là nước theo sau, bởi vậy, không có lý do gì để Học viện theo sau.

AI thì có công nghệ, thuật toán AI và ứng dụng AI. Công nghệ, thuật toán AI thì tính quốc tế cao. Nhưng ứng dụng AI thì mang tính địa phương cao, phải bám vào thực tiễn và văn hoá Việt Nam, cho nên, chương trình giảng dạy AI phải chú ý đến phát triển ứng dụng. Công nghệ thì Việt Nam có thể chưa đi đầu, nhưng ứng dụng AI thì phải đi đầu. Việt Nam sẽ đi lên từ đây, từ ứng dụng trước. Chương trình giảng dạy AI tại Việt Nam phải chú trọng thúc đẩy việc ứng dụng, giúp Việt Nam đi đầu về ứng dụng, có đủ nhân lực AI để đưa ứng dụng AI vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội Việt Nam. Khoa AI của Học viện phải lọt vào top 100 thế giới về ứng dụng AI.

Công nghệ AI đã có những bước phát triển đột phá, nhưng vẫn chưa ai biết ứng dụng nào sẽ là chính, mang tính quyết định về thành công của AI. Vậy Việt Nam chúng ta có phải là người sẽ tìm ra ứng dụng chính này hay không, mặc dù công nghệ không phải do chúng ta phát triển?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chúc mừng việc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông thành lập Khoa AI. Ảnh: Lê Anh Dũng

Bộ TT&TT đang chỉ đạo phát triển ứng dụng AI là trợ lý ảo (TLA). Mỗi đơn vị sẽ có trợ lý ảo của mình, tiến tới mỗi người có một TLA. TLA này là do chúng ta xây dựng. AI làm trợ lý, giúp việc cho con người chứ không vượt lên trên con người. AI dù có thông minh hơn, nhiều thông tin, nhiều tri thức hơn nhưng cũng chỉ là để giúp cho con người ra quyết định, làm việc tốt hơn.

Ứng dụng hiệu quả nhất của AI, dễ làm nhất, và có thể làm nhanh là TLA. Có thể làm nhanh là vì nền tảng công nghệ đã sẵn sàng, chỉ cần mỗi đơn vị đưa hệ tri thức của mình vào TLA và huấn luyện, thường là trong 3-6 tháng. TLA thì như đứa con mình sinh ra, nuôi dưỡng rồi sử dụng, mình làm trợ lý cho nó trước rồi nó làm trợ lý cho mình sau. Hiệu quả là vì mỗi cán bộ công chức sẽ có thêm một người giúp việc.

 Khoa AI của Học viện phải lọt vào top 100 của thế giới về ứng dụng AI. .  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Tiến tới mỗi người Việt Nam sẽ có một trợ lý của riêng mình, do chính mình nuôi dưỡng, nó chứa toàn bộ hệ tri thức của mình. Khi mình sống thì nó làm trợ lý cho mình, khi mình chết thì nó trở thành chính mình, để con cháu các đời sau vẫn có thể nói chuyện, tâm sự, cho lời khuyên, và chúng ta sẽ trở thành người bất tử.

TLA mà Việt Nam chúng ta đang xây dựng có thể là ứng dụng quan trọng nhất của AI.

Khoa AI của Học viện muốn xuất sắc thì phải có một triết lý khác biệt và xuất sắc về đào tạo AI. Chính triết lý đào tạo này sẽ là thỏi nam châm để thu hút tri thức xuất sắc, giáo viên xuất sắc và sinh viên xuất sắc. Về thu hút giáo viên, chuyên gia xuất sắc tham gia giảng dạy thì chú ý thu hút cái hồn của họ, tri thức của họ, sự xuất sắc của họ hơn là sự hiện diện vật lý của họ.

Với những công nghệ mới, thiếu giáo viên, thiếu cơ sở vật chất, thiếu nơi thực tập, thiếu học liệu, chưa rõ nhu cầu của thị trường, thì hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp sẽ là lời giải tốt. Học viện phải tích cực hợp tác với các doanh nghiệp AI trong nước và quốc tế.

Đào tạo nhân lực AI thì phải kết hợp đào tạo đại học, cao học, tiến sỹ và đào tạo lại. Các kỹ sư điện tử, viễn thông, CNTT có thể reskill để thành kỹ sư AI, để đáp ứng nhanh nhu cầu về nhân lực AI trong ngắn hạn.

Thưa các bạn sinh viên AI,

Các bạn hoàn toàn có thể tự hào, và cần phải tự hào là những sinh viên AI đầu tiên của Việt Nam. Các bạn là thế hệ tiên phong của một lĩnh vực tiên phong. Người mở đường thì quan trọng nhất là không sợ. Hãy tận dụng mọi cơ hội để học hỏi. Người mở đường thì sẽ không có giới hạn, không bị giới hạn, vì chưa có định nghĩa. Việc cũ thì đã được định nghĩa, mà định nghĩa là một cái hộp, nó giới hạn các bạn trong cái hộp đó. Các bạn là những người hạnh phúc nhất vì được là người đi đầu tiên, mở đường, không có cái hộp giới hạn mình.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng và các Thứ trưởng dự lễ khai trương biển tên Khoa AI của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Ảnh: Lê Anh Dũng

AI là để phục vụ sự thịnh vượng và hạnh phúc con người, phải đảm bảo sự minh bạch và giải thích được, có trách nhiệm giải trình, công bằng và không phân biệt đối xử, tôn trọng các giá trị đạo đức và quyền con người, bảo vệ quyền riêng tư, tiếp cận bao trùm, đảm bảo an ninh và bảo mật, kiểm soát được, quản lý dựa trên rủi ro, đổi mới có trách nhiệm và khuyến khích hợp tác quốc tế. Đó là những nguyên tắc quản lý và phát triển AI. Khoa AI của Học viện và các sinh viên của Khoa phải nhận thức sâu sắc những nguyên tắc này để AI luôn phụng sự con người.

Người mở đường thì quan trọng nhất là không sợ. Hãy tận dụng mọi cơ hội để học hỏi. Người mở đường thì sẽ không có giới hạn, không bị giới hạn, vì chưa có định nghĩa. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Khoa Trí tuệ nhân tạo của Học viện ra đời đúng vào ngày 28/8 - Ngày truyền thống Ngành TT&TT. Việc lấy ngày này làm ngày ra mắt khoa về công nghệ số một của cuộc CMCN lần thứ tư là để truyền đi thông điệp về kế thừa quá khứ và mở ra tương lai của mỗi thế hệ.

Tôi tin tưởng rằng, với tinh thần tiên phong của Học viện, của Lãnh đạo Học viện, với lợi thế, tiềm năng của học viện, được sự chỉ đạo và bảo trợ của Bộ TT&TT, của Bộ trưởng Bộ TT&TT, được sự hỗ trợ của cộng đồng doanh nghiệp AI trong và ngoài nước, Khoa Trí tuệ nhân tạo sẽ trở thành khoa đào tạo xuất sắc nhất cho những người xuất sắc nhất để tạo ra những giá trị xuất sắc nhất.

Xin chúc mừng Khoa trí tuệ nhân tạo đầu tiên tại Việt Nam! Xin chúc mừng Học viện!

Điện Biên đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát

Sáng 28/8, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên tổ chức khai trương, đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát toàn tỉnh Điện Biên. Đây là một hệ thống thành phần thuộc Trung tâm Điều hành thông minh tỉnh Điện Biên được đầu tư và triển khai với mục tiêu cung cấp một công cụ hiện đại, hiệu quả để thực hiện giám sát, quản lý và điều hành, thực hiện bảo đảm an ninh trật tự xã hội, an toàn giao thông trên địa bàn.

Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên cùng lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông Điện Biên ấn nút đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát.
Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên cùng lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông Điện Biên ấn nút đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát.

Dự, chứng kiến lễ khai trương, đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát tỉnh Điện Biên, có đồng chí Trần Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Lê Thành Đô, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên cùng đại diện lãnh đạo các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố.

Hệ thống camera giám sát tỉnh Điện Biên gồm hai loại: camera giám sát và camera giám sát an ninh trật tự.

Điện Biên đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát ảnh 1

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Điện Biên tham quan tại Trung tâm Điều hành đô thị thông minh tỉnh Điện Biên.

Đồng chí Vũ Anh Dũng, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Điện Biên, cho biết: Hệ thống camera giám sát, điều hành giao thông thông minh gồm 2 loại camera giám sát: camera giám sát, xử phạt vi phạm giao thông có 19 thiết bị được lắp đặt tại các ngã 3, ngã 4 đèn đỏ trên địa bàn thành phố; camera đo đếm lưu lượng phương tiện có 6 thiết bị đo đếm lưu lượng phương tiện giao thông được lắp đặt tại 3 cửa ngõ vào thành phố, gồm: hướng cầu Cảnh Quang, Thanh Nưa, Thanh Xương.

Hệ thống camera giám sát an ninh trật tự công cộng có 3 loại camera để phục vụ giám sát trật tự an ninh công cộng, gồm: camera quan sát tầm cao với 11 thiết bị được lắp đặt tại các huyện, thị xã, thành phố; camera nhận diện khuôn mặt và phát hiện đám đông có tổng số 34 thiết bị được lắp đặt tại các khu công cộng như: các khu vui chơi giải trí cộng đồng, các điểm di tích lịch sử, một số các cơ sở y tế, giáo dục của các huyện, thị xã, thành phố; camera giám sát an ninh có 74 thiết bị đầu tư để giám sát an ninh trật tự khu phố.

Ngoài ra hệ thống còn quản lý, tích hợp 68 camera quan sát chia sẻ từ các huyện, thị xã, thành phố.

Việc đưa hệ thống camera giám sát vào sử dụng là phần việc quan trọng trong chiến lược xây dựng tỉnh Điện Biên thông minh, bền vững; giúp các cơ quan nhà nước quản lý hiệu quả hơn, phản ứng nhanh hơn với các tình huống bất ngờ, tạo ra môi trường sống an toàn cho mọi người dân.

Phát biểu tại buổi khai trương, đồng chí Lê Thành Đô, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, khẳng định sự kiện đưa hệ thống camera giám sát vào khai thác, sử dụng là một bước tiến lớn trong nỗ lực của Điện Biên nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, điều hành, đặc biệt là công tác đảm bảo an ninh trật tự xã hội, an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

Điện Biên đưa vào sử dụng hệ thống camera giám sát ảnh 2

Đồng chí Lê Thành Đô, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên giao nhiệm vụ cho các sở, ngành tại buổi khai trương đưa hệ thống camera giám sát vào khai thác, vận hành.

Để hệ thống camera giám sát hoạt động hiệu quả, đồng chí Lê Thành Đô giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành. Cụ thể, Sở Thông tin và Truyền thông Điện Biên phải tiếp tục tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Chỉ đạo hoàn thành đưa vào sử dụng toàn bộ các hạng mục cuối cùng của Dự án trong năm 2024 theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt; phối hợp với các ngành, các cấp quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả các hạng mục đã được đầu tư, bảo đảm an toàn an ninh mạng; hướng dẫn, tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp trong việc triển khai các quy chế Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành: Quy chế quản lý vận hành Trung tâm IOC; Quy chế tiếp nhận, xử lý phản ánh hiện trường; Quy chế quản lý, khai thác, vận hành và sử dụng hệ thống camera giám sát tỉnh.

Công an tỉnh phải chủ động phối hợp tiếp nhận, quản lý, khai thác có hiệu quả các hệ thống được bàn giao phục vụ công tác bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn; triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ phát hiện, xử lý theo quy định đối với các tổ chức, cá nhân lợi dụng camera giám sát để xâm hại an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố theo chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm bảo đảm hoạt động, kết nối với hệ thống camera cấp 1 để hình thành hệ thống camera giám sát toàn tỉnh.

Đồng chí Lê Thành Đô cũng đề nghị các sở, ngành, huyện, thị xã, thành phố đảm bảo kinh phí bảo trì, bảo dưỡng, nâng cấp, mở rộng hệ thống; bố trí cán bộ quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng theo quy chế.

 

LÊ LAN

Khai trương Hệ thống camera giám sát tỉnh Điện Biên.

  Sáng 28/8, UBND tỉnh Điện Biên tổ chức Lễ Khai trương Hệ thống camera giám sát tỉnh Điện Biên.


(Lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và lãnh đạo các đơn vị nhấn nút Khai trương Hệ thống Camera giám sát tỉnh Điện Biên. Ảnh: Xuân Quảng)

Dự lễ khai trương có ông Trần Quốc Cường, Bí thư Tỉnh ủy, cùng các đại diện là lãnh đạo Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh; UBND tỉnh, UBMT Tổ quốc Việt Nam tỉnh; Văn phòng Tỉnh uỷ, Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh; Lãnh đạo các Sở, ngành tỉnh, lãnh đạo huyện Điện Biên và thành phố Điện Biên Phủ.
Hệ thống Camera Giám sát, điều hành giao thông thông minh thuộc Trung tâm điều hành tập trung đô thị thông minh IOC, được đầu tư 19 thiết bị; Camera đo đếm lưu lượng phương tiện 6 thiết bị. Hệ thống Camera Giám sát an ninh trật tự công cộng gồm: Camera quan sát tầm cao với 11 thiết bị; Camera nhận diện khuôn mặt và phát hiện đám đông 34 thiết bị; Camera giám sát an ninh 74 thiết bị. Ngoài ra còn có 68 Camera quan sát chia sẻ từ các huyện, thị xã, thành phố.

          Các hệ thống Camera giao thông này sẽ hỗ trợ lực lượng cảnh sát giao thông Phát hiện hành vi vượt đèn đỏ; Điều khiển phương tiện đi không đúng làn đường hoặc phần đường; vượt trái phép; dừng, đỗ phương tiện trái với quy định; Không chấp hành các hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; chở quá số người quy định; lạng lách, đánh võng; xử phạt nguội. Đồng thời, Hệ thống camera thông minh là công cụ hỗ trợ công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; truy vết các phương tiện hoặc đối tượng vi phạm có đi qua tuyến đường có hệ thống camera sẽ được ghi nhận lại; hỗ trợ nhận diện nhận diện các đối tượng vi phạm pháp luật đang bị truy nã.

          Đặc biệt, các Camera quan sát tầm cao và Camera nhận diện khuôn mặt, phát hiện đám đông được lắp đặt tại các khu công cộng như: các khu vui chơi giả trí cộng đồng, các điểm di tích lịch sử, một số các cơ sở y tế, giáo dục của các huyện, thị xã, thành phố để giám sát an ninh trật tự nhằm hỗ trợ các lực lượng quan trắc và phát hiện đám khói, đám cháy, nguy cơ lũ lụt, tìm kiếm cứu nạn, quản lý, giám sát lâm nghiệp và khoáng sản; Giám sát hình ảnh hành vi, hiện trường; Giám sát đám đông; Giám sát xâm nhập; Giám sát tài sản; nhận diện khuôn mặt từ hình ảnh sẵn có đối chiếu với các hình ảnh mà Camera thu thập được; Tổng hợp, thống kê dữ liệu các loại đối tượng theo từng ngày.


(Đ/c: Lê Thành Đô - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu chỉ đạo tại buổi lễ Khai trương. Ảnh: Xuân Quảng)

          Phát biểu chỉ đạo tại Lễ Khai trương, đ/c: Lê Thành Đô - Phó Bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND tỉnh đã đánh giá cao Sở TT&TT trong thời gian qua đã nỗ lực tham mưu và phối hợp triển khai hệ thống Camera giám sát. Đây là một bước tiến lớn trong việc nâng cao công tác quản lý, giám sát và đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, và nhiều lĩnh vực khác trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Hệ thống đi vào hoạt động sẽ giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước mà còn góp phần tạo ra một môi trường sống an toàn, văn minh và hiện đại hơn cho người dân Điện Biên.

Đồng thời, đồng chí chỉ đạo các đơn vị trong thời gian tới theo chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu triển khai một số nội dung: Đảm bảo hạ tầng và an ninh về hệ thống cũng như người được giao sử dụng; phòng tránh, xử lý các hành vị vi phạm xâm hại an ninh, trật tự an toàn xã hội; tuân thủ các quy chế quản lý, vận hành đã được ban hành; Đối với các cơ quan quản lý Hệ thống camera cần Ban hành quy chế về quản lý, vận hành; bố trí nguồn lực, kinh phí, con người, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ. Đối với các cơ quan khai thác và sử dụng Hệ thống camera giám sát thực hiện theo quy chế, đồng thời Bảo đảm an toàn bảo mật thông tin dữ liệu của Hệ thống.

(Các đại biểu đi thăm quan Trung tâm Điều hành thông minh tỉnh Điện Biên. Ảnh: Xuân Quảng)

 

Các đại biểu cũng đã được thăm quan và nghe thuyết minh trực quan tại Trung tâm Điều hành thông minh tỉnh Điện Biên. Sở TT&TT cũng đã tổ chức Triển khai Quy chế quản lý, vận hành, khai thác và sử dụng Hệ thống camera giám sát tỉnh Điện Biên; tập huấn khai thác, sử dụng cho gần 80 CBCC,VC của các cơ quan đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Tác giả: Tin: Trọng Nghĩa

Thông cáo báo chí về lộ trình dừng công nghệ di động 2G

 

Sở cứ pháp lý về dừng công nghệ di động 2G

 Căn cứ chủ trương, định hướng dừng công nghệ di động 2G, phổ cập điện thoại thông minh tại các văn bản:

- Quyết định 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030 đặt mục tiêu phổ cập dịch vụ dịch vụ mạng di động 4G/5G và phổ cập điện thoại di động thông minh tại Việt Nam;

- Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021- 2023, tầm nhìn năm 2050 đưa ra định hướng về phát triển hạ tầng viễn thông trong đó yêu cầu thực hiện lộ trình dừng công nghệ di động cũ (2G/3G) và Thúc đẩy việc triển khai chương trình "Mỗi người dân một máy điện thoại thông minh" là nội dung của phương án phát triển Băng rộng di động đến người sử dụng.

- Thông tư số 43/2020/TT-BTTTT ngày 31/12/2020 về ban hành "quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thiết bị đầu cuối thông tin di động mặt đất - phần truy nhập vô tuyến"; Thông tư số 20/2023/TT-BTTTT ngày 29/12/2023 ban hành "quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thiết bị đầu cuối thông tin di động mặt đất - phần truy nhập vô tuyến".

- Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 03/2024/TT-BTTTT ngày 30/4/2024 về quy hoạch băng tần 1800 MHz có hiệu lực kể từ ngày 14/6/2024; Thông tư số 04/2024/TT-BTTTT ngày 10/5/2024 về quy hoạch băng tần 900 MHz cho hệ thống thông tin di động mặt đất công cộng IMT của Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 24/6/2024 tạo sở cứ pháp lý cho lộ trình dừng công nghệ di động cũ và phổ cập điện thoại thông minh.

Nội dung chính về lộ trình dừng công nghệ 2G

Căn cứ Thông tư số 03/2024/TT-BTTTT và Thông tư số 04/2024/TT-BTTTT, lộ trình dừng công nghệ di động 2G tại Việt Nam như sau:

a) Hệ thống thông tin di động tiêu chuẩn GSM (hệ thống 2G) hiện có được cấp lại giấy phép băng tần 900Mhz, 1800MHz tại thời điểm tháng 9/2024 khi đáp ứng điều kiện như sau:

+ Kể từ ngày 16/9/2024, không cung cấp dịch vụ cho thiết bị đầu cuối thuê bao chỉ hỗ trợ tiêu chuẩn GSM, trừ trường hợp cung cấp dịch vụ cho thiết bị đầu cuối thuê bao kết nối vào mạng GSM cho mục đích truyền, nhận dữ liệu giữa thiết bị với thiết bị (M2M) hoặc cung cấp dịch vụ tại khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, nhà giàn DK.

+ Hệ thống thông tin di động GSM (2G) được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 15/9/2026, trừ trường hợp cung cấp dịch vụ tại khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, nhà giàn DK.

b) Căn cứ quy hoạch các băng tần 900MHz/1800MHz, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ không cấp phép lại việc sử dụng các băng tần 900MHz/1800MHz nếu doanh nghiệp không có phương án đảm bảo không còn thuê bao sử dụng thiết bị đầu cuối chỉ hỗ trợ tiêu chuẩn GSM (2G only) hoạt động trên mạng từ ngày 16/9/2024.

Giải pháp triển khai dừng công nghệ 2G và thúc đẩy chuyển đổi điện thoại thông minh

a) Doanh nghiệp hỗ trợ thuê bao chuyển đổi sang sử dụng máy điện thoại công nghệ cao hơn: thực hiện chương trình hỗ trợ kinh phí mua máy smart phone 4G hoặc điện thoại feature phone 4G và ban hành các gói cước hỗ trợ thuê bao chuyển đổi, thực hiện đến 16/9/2024.

b) Các doanh nghiệp thực hiện ngăn chặn nhập mạng các máy điện thoại 2G không chứng nhận hợp quy.

c) Doanh nghiệp phát triển các trạm thu phát sóng di động đảm bảo vùng phủ mạng 4G thay thế mạng 2G khi dừng hệ thống 2G và hoàn thành trước tháng 9/2026.

d) Bộ Thông tin và Truyền thông, Sở Thông tin và Truyền thông, doanh nghiệp viễn thông di động thực hiện truyền thông tới từng đối tượng người sử dụng trên các phương tiện truyền thông phù hợp để nắm bắt chủ trương và chủ động chuyển đổi sang sử dụng máy điện thoại công nghệ 4G trở lên./.

Bộ Thông tin và Truyền  thông

  • 1
  • ...
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • ...
  • 9

 

HỆ THỐNG PHẢN ÁNH THÔNG TIN TỈNH ĐIỆN BIÊN      

 

Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên

Địa chỉ: Tổ 04, phường Nam Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Chịu trách nhiệm chính: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên

Điện thoại: 0251.3835.666

Email: paht@dienbien.gov

Chung nhan Tin Nhiem Mang ỨNG DỤNG DI ĐỘNG

TẢI ỨNG DỤNG NGAY

Android IOS

Mô tả hình ảnh 1 Mô tả hình ảnh 2 Mô tả hình ảnh 3

 

 

#

#

#

#

Gửi lại mã xác thực en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập

Vui lòng nhập mã xác thực chúng tôi đã gửi vào số điện thoại của bạn en

Vui lòng nhập mã xác thực

Nếu bạn đăng ký thông tin sai! Vui lòng click vào đây để đăng ký lại thông tin tài khoản! en
OTP sẽ hết hạn sau

Cập nhật thông tin en

Đăng ký tài khoản en

Vui lòng chọn đối tượng đăng ký
Vui lòng nhập họ tên
Vui lòng nhập CMND/CCCD
Vui lòng nhập số điện thoại/ Số điện thoại không đúng
Vui lòng nhập mã số thuế
Vui lòng chọn lĩnh vực
Vui lòng chọn loại văn bản
Vui lòng nhập mật khẩu
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập xác nhận mật khẩu/ Xác nhận mật khẩu không đúng
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt

Đăng nhập en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập
Vui lòng nhập mật khẩu
Quên mật khẩu en
Nếu tài khoản của bạn chưa kích hoạt? Click vào đây để gửi lại mã xác nhận! en