Tìm kiếm en
  • Phản ánh hiện trường en
  • Chuyên mục en
    • Chính trị - Kinh tế
      • Kinh tế - Thị trường
      • Chính trị - Kinh tế
    • Văn hóa - Xã hội
      • Văn hóa - Xã Hội
      • Thời tiết - Thiên tai
      • Văn hóa, Du lịch
      • Chuyển đổi số
    • An ninh - Quốc phòng
      • Trật tự đô thị
      • Vi phạm giao thông
      • Vi phạm pháp luật
      • An ninh - Quốc phòng
    • Cơ sở hạ tầng
      • Cơ sở hạ tầng
      • Hạ tầng điện, viễn thông
      • Trật tự xây dựng
      • Kiểm tra - Giám sát
    • Y tế - Giáo dục
      • Vệ sinh an toàn thực phẩm
      • Thông tin dịch bệnh
      • Giáo dục - Y tế
      • Y tế
    • Môi trường
      • Vệ sinh môi trường
    • Thông tin
      • Thông tin
    • Khác
      • Lĩnh vực khác
      • Thống kê
  • Giới thiệu en
  • Hướn dẫn en
  • Bản đồ en
  • IOS Android
  • Đăng nhập en
  • Đăng ký en
IOS Android
  1. Trang chủ
  2. Tin mới en

Chính trị - Kinh tế

Chính trị - Kinh tế

Sản xuất tập trung để nâng tầm sản phẩm nông nghiệp

 

 

ĐBP - Nằm ở độ cao khoảng 1.400m so với mực nước biển, quanh năm bao phủ bởi sương mù, từ lâu huyện Tủa Chùa đã hình thành vùng chè shan tuyết cổ thụ, trong đó nhiều cây tuổi đời vài trăm năm. Đây là giống chè mọc tự nhiên, được chăm sóc hoàn toàn hữu cơ. Trước kia, người dân bản địa chủ yếu thu hái sử dụng trong gia đình. Đến nay, chè shan tuyết đã trở thành đặc sản và mang lại nguồn thu ổn định cho nhiều người dân địa phương.

 

 

Bà Vũ Ngọc Ánh, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tủa Chùa cho biết: Cây chè shan tuyết ngày càng mang lại lợi ích cho nông dân 4 xã: Tả Sìn Thàng, Sín Chải, Lao Xả Phình và Tả Phìn. Để phát triển sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ trên cơ sở quy hoạch, phát triển vùng nguyên liệu, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan hướng dẫn kỹ thuật, tuyên truyền vận động người dân chăm sóc, bảo vệ, thu hái, chế biến chè. Đặc biệt là việc ươm, trồng mới chè cây cao từ cây chè shan tuyết cổ thụ.

Từ năm 2019, vận dụng, lồng ghép các nguồn vốn của Trung ương và tỉnh, huyện Tủa Chùa đã chú trọng phát triển, chuẩn hóa sản phẩm chè với mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi. Ðến nay, huyện đã hỗ trợ xây dựng Dự án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè cây thấp với quy mô hơn 30ha trên địa bàn xã Sính Phình do Công ty TNHH Hương Linh chủ trì liên kết. Dự án cải tạo, nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm chè bằng việc sử dụng phân bón hữu cơ an toàn, tác động kỹ thuật đốn tỉa phù hợp và cam kết thu mua ổn định. Bên cạnh đó, huyện còn hỗ trợ xây dựng, phát triển sản phẩm chè an toàn theo chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” như: Hỗ trợ bao bì, in tem, thiết kế mẫu mã sản phẩm. Từ đó, tạo sinh kế, tăng thu nhập cho người dân, đưa cây chè thành cây nông nghiệp mũi nhọn và các sản phẩm chè shan tuyết là sản phẩm đặc trưng, đặc sản của Tủa Chùa.

 

 

Cùng với Tủa Chùa, hiện nay tại các huyện khác trên địa bàn tỉnh đã và đang hình thành vùng chuyên canh các loại cây công nghiệp, nông nghiệp như: Lúa gạo tại huyện Điện Biên; vùng cà phê huyện Mường Ảng; vùng mắc ca tại huyện Tuần Giáo; vùng cao su huyện Điện Biên, Mường Chà... Từ đó, tạo điều kiện phát triển công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Trên địa bàn huyện Mường Nhé, Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé với diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn và hệ động thực vật phong phú là tài nguyên quý để bảo tồn và xây dựng thành vườn quốc gia. Đây là lợi thế để khai thác, phát triển đa dạng nông nghiệp, chăn nuôi, cây công nghiệp, trồng rừng, du lịch, nghỉ dưỡng chất lượng cao.

 

 

Tại nhiều địa bàn, người dân đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng chuyển dịch từ độc canh cây lúa sang trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày hướng sản xuất hàng hóa. Với mô hình liên kết này, cơ cấu sản xuất nội ngành từng bước chuyển dịch theo hướng phát triển các sản phẩm hàng hóa chủ lực, giá trị. Từng bước sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Đơn cử như việc trồng và chế biến cà phê, tổng diện tích trồng cà phê toàn tỉnh hơn 3.900ha với tổng sản lượng cà phê nhân đạt 7.964 tấn; trong đó tập trung chủ yếu ở huyện Mường Ảng. Hiện tại chế biến cà phê chủ yếu là sơ chế cà phê nhân để xuất khẩu; một số doanh nghiệp chế biến cà phê bột, phục vụ thị trường trong tỉnh. Hay vùng trồng và chế biến lúa, gạo chất lượng cao tại huyện Điện Biên. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có nhà máy chế biến gạo tại xã Thanh Hưng (huyện Điện Biên) với dây chuyền khép kín, công suất xay xát đạt 6.000 tấn lúa/năm (3.000 tấn gạo/năm) và nhiều xưởng xay xát quy mô hộ gia đình. Liên kết sản xuất lúa gạo giữa doanh nghiệp và nông dân bước đầu đã tạo sự ổn định đầu ra sản phẩm. Từ đó, nông dân yên tâm sản xuất, tăng chất lượng và giá trị sản phẩm, tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

Bài, ảnh: Đức Kiên

 

Điện Biên Đông nâng cao giá trị nông sản

 


 

Điện Biên TV - Tỉnh Ðiện Biên có nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, trong đó một số sản phẩm như: Gạo, cà phê, chè… đã khẳng định được chất lượng, tạo thương hiệu trên thị trường nông sản Việt Nam. Phát huy tiềm năng, lợi thế sẵn có những năm gần đây, các địa phương trong tỉnh đang tiếp tục nỗ lực thực hiện các chương trình, dự án nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường tiêu thụ, từ đó nâng cao thu nhập cho người sản xuất, huyện Điện Biên Đông là điển hình.

d
Năm 2023, huyện Điện Biên Đông triển khai 3 mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm.

Trong lĩnh vực trồng trọt, liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và nông dân đang được chính quyền địa phương, ngành chuyên môn tại Điện Biên Đông chú trọng xây dựng, đồng thời đẩy mạnh việc thu hút đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Riêng năm 2023, địa phương đã triển khai 3 mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bí xanh Tìa Dình với quy mô liên kết 15 ha; nếp tan Luân Giói quy mô gần 50ha/vụ/năm và mắc ca tại xã Pu Nhi, quy mô 15ha. Qua đó, người dân ngày càng được hướng dẫn hoàn thiện hơn về quy trình sản xuất; đồng thời tạo đầu ra bền vững và ổn định cho các sản phẩm địa phương.

Ông Hoàng Thanh Phúc, Đại diện Công ty Cổ phần HD Kinh Bắc cho biết: “Công ty Cổ phần HD Kinh Bắc được lựa chọn tham gia thực hiện mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mắc ca huyện Điện Biên Đông. Trong dự án này, công ty sẽ là đơn vị đồng hành cùng hợp tác xã và người dân để làm sao mô hình của người dân đạt năng suất, chất lượng cao nhất để đảm bảo được sản phẩm sau khi thu hoạch đạt tiêu chuẩn công ty sẽ xuất khẩu ra nước ngoài.”

“Đối với các sản phẩm đang thực hiện liên kết trên địa bàn thì sản phẩm bí xanh Tìa Dình đã là sản phẩm OCOP. Còn đối với sản phẩm gạo nếp tan Luân Giói thì đó là sản phẩm đặc trưng của xã Luân Giói, huyện cũng định hướng sẽ hình thành thêm một sản phẩm OCOP trên địa bàn.” - ông Phạm Quang Thành, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Điện Biên Đông cho biết.

Đối với thế mạnh chăn nuôi đại gia súc, Điện Biên Đông đã có gần 27.000 trên tổng số 38.000 con trâu, bò được chuyển đổi thành hàng hóa, đạt tỷ lệ trên 71%. Kết quả này có được nhờ nỗ lực của các cấp chính quyền địa phương trong vận động người dân chuyển đổi từ chăn thả tự do đại gia súc sang nuôi nhốt vỗ béo tập trung theo hướng hàng hóa. Cùng với đó, cơ quan chuyên môn cũng tăng cường hướng dẫn kỹ thuật làm chuồng trại; chăm sóc, phòng bệnh cho gia súc; trồng trên 900ha cỏ voi; hỗ trợ người dân thực hiện hàng chục mô hình, dự án chăn nuôi gia súc tại các xã: Na Son, Keo Lôm, Chiềng Sơ...

S
Điện Biên Đông có 4 sản phẩm đạt 3 sao cấp tỉnh gồm: Bí xanh Tìa Dình, lạc đỏ Na Son, khoai sọ Phì Nhừ và thịt lợn sấy khô.

Nỗ lực thực hiện chuyển đổi sản xuất và tái cơ cấu ngành nông nghiệp, huyện Điện Biên Đông đã đạt được những kết quả khá toàn diện. Diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng phát  triển ổn định và tăng qua các năm; cơ cấu đàn vật nuôi được chuyển dịch theo hướng tăng đàn, tăng loài và dần trở thành hàng hóa. Các vùng chuyên canh về lúa gạo, cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc được hình thành. Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) cũng mang lại diện mạo mới cho sản phẩm về cả chất lượng, hình thức và số lượng. với 4 sản phẩm đạt 3 sao cấp tỉnh gồm: Bí xanh Tìa Dình, lạc đỏ Na Son, khoai sọ Phì Nhừ và thịt lợn sấy khô.

Ông Nguyễn Trọng Huế, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Điện Biên Đông cho biết: “Huyện cũng tập trung phát triển sản phẩm nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị, đặc biệt là theo hướng sản xuất hàng hóa. Đối với lĩnh vực trồng trọt là tập trung phát triển cây trồng theo lợi thế của địa phương như: Giống lúa nếp tan, nếp 86, nếp 87, các giống cây trồng mới, đặc biệt là các sản phẩm OCOP của huyện. Huyện cũng tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là trong các kỳ lễ hội.”

Huyện Điện Biên Đông đang quy hoạch phấn đấu đến năm 2030 phát triển được 29 sản phẩm, trong đó lựa chọn và đầu tư 6 sản phẩm đạt tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm quốc gia. Để đạt được mục tiêu đó, địa phương sẽ tiếp tục thực hiện chủ trương cơ cấu lại ngành nông nghiệp; phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, đáp ứng nhu cầu thị trường; mở rộng liên kết sản xuất và nâng cao chuỗi giá trị để tăng thu nhập cho người dân khu vực nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.

 

 

Phương Dung - Ngọc Hải/DIENBIENTV.VN

Những “cánh chim đầu đàn” ở khu dân cư

 

 

ĐBP - Tiên phong trong những việc khó, có nhiều đóng góp khi cùng cấp ủy, chính quyền cơ sở vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, chung tay xây dựng xã, bản ổn định, giàu mạnh… Đó là câu chuyện về nhiều đảng viên tiêu biểu trên địa bàn tỉnh. Bằng uy tín, trách nhiệm của mình, họ đã và đang là "cánh tay nối dài”, là “cánh chim đầu đàn” ở khu dân cư…

Gương mẫu đi đầu từ lời nói đến hành động; hội tụ, đoàn kết, dẫn dắt nhân dân chung sức, chung lòng thi đua xây dựng bản làng ổn định, hội nhập và phát triển… Ðó là hình ảnh quen thuộc của ông Ðinh Văn Hoàn, đảng viên Chi bộ thôn Việt Thanh 4, xã Thanh Chăn, huyện Ðiện Biên. Ông Hoàn cho biết, những năm gần đây đời sống của nhân dân trong thôn không ngừng đổi mới, người dân đã và đang thay đổi nếp nghĩ, cách làm, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Kết quả này có phần đóng góp quan trọng dưới sự dẫn dắt của Chi bộ thôn và mỗi đảng viên nơi đây.

 

 

Minh chứng cho lời nói của mình, ông Hoàn dẫn chúng tôi thăm một số diện tích canh tác của người dân trong xã. Chỉ tay vào hàng trăm héc ta rau cần xanh mướt, ông Hoàn phấn khởi: Không nói có lẽ các anh không biết đây là thành quả từ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của thôn. Cách đây vài năm, những diện tích này đều trồng lúa một vụ, song năng suất không cao. Trước tình hình đó, Chi bộ thôn Việt Thanh 4 đã đi tìm hiểu rồi bàn bạc, thống nhất vận động bà con chuyển từ trồng lúa sang trồng rau cần. Với trách nhiệm của người đảng viên, chúng tôi đã thực hiện trước. Như gia đình tôi, đến nay đã chuyển đổi hàng nghìn mét vuông rau màu.

Nghe đảng viên nói, thấy đảng viên làm, nhiều người dân Việt Thanh 4 đã làm theo định hướng của Chi bộ. Bởi vậy mà trong tổng số 65 hộ ở Việt Thanh 4 thì có tới 53 hộ trồng rau cần.

 

 

Thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, được sự tuyên truyền của Chi bộ 4 cũng như cá nhân đảng viên Ðinh Văn Hoàn, nhiều hộ dân trong thôn tiếp tục chuyển đổi hướng chăn nuôi. Theo đảng viên Ðinh Văn Hoàn, cũng từ những diện tích trồng rau màu kém hiệu quả, Chi bộ định hướng cho bà con đào ao thả cá. Ðến nay tính ra, cả thôn Việt Thanh 4 có gần 7ha ao thả cá giống với khoảng hơn 15 hộ tham gia, bước đầu cho thấy hiệu quả kinh tế cao.

 

 

Tại huyện Mường Ảng, nhắc đến đảng viên Lường Văn Chương, Chi bộ bản Bua 2, xã Ẳng Tở nhiều người biết ông bởi suốt quãng thời gian hơn 10 năm làm trưởng bản, có thời điểm còn kiêm cả phó bí thư chi bộ, ông luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào, hoạt động ở địa phương. Hơn 60 tuổi nhưng với chức trách được Ðảng, Nhà nước giao, ông Chương luôn phối hợp với các tổ chức đoàn thể của bản, đẩy mạnh tuyên truyền nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Ðặc biệt, bằng trách nhiệm của trưởng bản, hơn nữa lại là đảng viên, ông Chương tích cực vận động các hộ cận nghèo đăng ký thoát nghèo, hộ nghèo đăng ký cận nghèo, đồng thời phát động tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giúp nhau làm nhà theo Ðề án vận động, hỗ trợ làm nhà đại đoàn kết của tỉnh trong thời gian qua.

 

 

“Chi bộ là cầu nối chuyển tải các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Ðảng, Nhà nước đến với Nhân dân; bởi vậy, bản thân là đảng viên, khi được bà con tin tưởng thì mình phải gương mẫu đi đầu thực hiện các nhiệm vụ. Có như vậy, niềm tin của nhân dân sẽ ngày càng được củng cố” - ông Chương chia sẻ.

 

 

Với trên 45.500 đảng viên trong toàn Ðảng bộ tỉnh, thời gian qua, nhiều đảng viên đã không ngừng học tập, gương mẫu, tự giác đi đầu trên mọi phương diện. Nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo; xây dựng Ðảng, hệ thống chính trị được các đảng viên tham mưu, hoặc áp dụng thành công rồi nhân rộng như mô hình đảng viên giúp đỡ hộ nghèo, mô hình bí thư chi bộ khu dân cư giỏi… qua đó được cấp ủy, chính quyền địa phương biểu dương, ghi nhận.

 

 

Không phủ nhận vai trò của mỗi đảng viên ở cơ sở trong việc xây dựng Ðảng, hệ thống chính trị vững mạnh, tuy nhiên, qua đánh giá ở một số cấp ủy, địa phương, hiện nay vẫn còn đảng viên làm việc cầm chừng, chưa phát huy hết năng lực, sở trường trong thực hiện nhiệm vụ. Ðể mỗi đảng viên là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo, thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện việc đổi mới tác phong, lề lối làm việc; nâng cao hơn nữa trách nhiệm, hiệu quả công tác, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ðặc biệt, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị; tổ chức cho cán bộ, đảng viên đăng ký chương trình, hành động thực hiện việc học và làm theo Bác phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao...

Từ năm 2021 đến nay, toàn tỉnh Điện Biên đã kết nạp được gần 4.500 đảng viên mới. Nâng tổng số đảng viên trong toàn tỉnh trên 45.000 người. Qua phân tích, đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên, năm 2022, toàn tỉnh có trên 95% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.

 

Quang Long

 

Giá xăng dầu đồng loạt giảm, giá xăng về mốc 23.000 đồng/lít

Từ 15 giờ chiều nay (23-11), giá xăng RON 95 giảm 506 đồng/lít, E5 RON 92 giảm 584 đồng/lít, giá xăng RON 95 về mốc 23.000 đồng/lít.

Liên bộ Công Thương - Tài chính vừa điều chỉnh giá xăng dầu từ 15 giờ chiều nay (23-11).

Giá xăng dầu từ 15 giờ chiều nay, cụ thể như sau:

- Xăng E5RON92: Không cao hơn 21.690 đồng/lít (giảm 584 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành), thấp hơn xăng RON95-III 1.334 đồng/lít;

- Xăng RON95-III: Không cao hơn 23.024 đồng/lít (giảm 506 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành);

- Dầu diesel 0.05S: Không cao hơn 20.283 đồng/lít (giảm 605 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành);

- Dầu hỏa: Không cao hơn 20.944 đồng/lít (giảm 568 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành);

- Dầu mazut 180CST 3.5S: Không cao hơn 15.638 đồng/kg (tăng 15 đồng/kg so với giá bán lẻ hiện hành).

Ảnh minh họa: vietnamnet

Đợt này, liên bộ tiếp tục không trích lập và không chi quỹ bình ổn giá với tất cả các mặt hàng xăng dầu.

Từ đầu năm đến nay, giá nhiên liệu trong nước có 33 đợt điều chỉnh, trong đó 18 lần tăng, 11 lần giảm và 4 kỳ giữ nguyên.

Theo liên bộ, thị trường xăng dầu thế giới kỳ điều hành lần này chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: Khả năng cắt giảm dầu mỏ của OPEC+ sẽ được gia hạn đến năm 2024, nhu cầu sụt giảm do suy thoái kinh tế và mức tăng trưởng toàn cầu chậm, tồn kho của Mỹ tăng… Các yếu tố này khiến giá xăng dầu thế giới trong những ngày vừa qua có biến động tăng giảm đan xen nhưng nhìn chung là giảm nhẹ.

* Theo Nghị định số 80/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 1-11-2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3-9-2014 được ban hành mới đây của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, thời gian điều hành/công bố giá xăng dầu sẽ rút ngắn thời gian điều hành giá xăng dầu từ 10 ngày xuống 7 ngày, thời gian điều hành giá xăng dầu được thực hiện vào ngày thứ Năm hằng tuần.

Với công thức giá và phương thức điều hành giá xăng dầu, nghị định sẽ điều chỉnh thời gian rà soát, công bố chi phí đưa xăng dầu từ nước ngoài về cảng Việt Nam, chi phí đưa xăng dầu từ các nhà máy lọc dầu trong nước về cảng, premium để tính giá xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước từ 6 tháng xuống 3 tháng nhằm bảo đảm cập nhật kịp thời hơn giá và các loại chi phí cho doanh nghiệp, tạo động lực cho doanh nghiệp tạo nguồn xăng dầu cung ứng cho thị trường nội địa.

Theo QĐND

Đề xuất thang giá điện mới, mức cao nhất hơn 3.600 đồng/kWh

Đề xuất thang giá điện mới, mức cao nhất hơn 3.600 đồng/kWh

15:29 - Thứ Tư, 22/11/2023 Lượt xem: 281  In bài viết

Bộ Công Thương vừa gửi Bộ Tư pháp thẩm định hồ sơ dự thảo Quyết định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện mới, thay thế cho Quyết định 28 năm 2014. Trong đó, Bộ Công Thương đề xuất biểu giá điện sinh hoạt rút ngắn từ 6 bậc xuống còn 5 bậc.

Bộ Công Thương đề xuất cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt rút ngắn từ 6 bậc xuống 5 bậc theo đề xuất của EVN và đơn vị tư vấn nhưng có thay đổi về cơ cấu tỷ trọng so với giá bán lẻ điện bình quân. Cụ thể: Bậc 1: cho 100 kWh đầu tiên; giá điện là 1.806,11 đồng/kWh

 Bậc 2: cho kWh từ 101 - 200; giá điện là 2.167,33 đồng/kWh

Bậc 3: cho kWh từ 201 - 400; giá điện là 2.729,23 đồng/kWh

Bậc 4: cho kWh từ 401 - 700; giá điện là 3.250,99 đồng/kWh

Bậc 5: cho kWh từ 701 trở lên; giá điện là 3.612,22 đồng/kWh

Trên cơ sở thiết kế các bậc, giá điện cho từng bậc được thiết kế lại nhằm thực hiện theo nguyên tắc nêu trên cũng như đảm bảo hạn chế tối đa tác động tới các hộ sử dụng điện.

Biểu giá điện mới dự kiến áp dụng so với biểu giá điện hiện hành.

Cụ thể: Giữ nguyên giá điện hiện hành cho bậc đầu từ 0-100 kWh nhằm đảm bảo ổn định giá điện cho các hộ nghèo, hộ chính sách xã hội có mức sử dụng điện thấp (chiếm 33,48% số hộ). Phần chênh lệch giảm doanh thu tiền điện được bù đắp từ hộ sử dụng điện từ 401-700 kWh và trên 700kWh.

Giữ nguyên giá điện hiện hành cho các bậc từ 101-200 kWh và 201-300 kWh.

Giá điện cho các bậc từ 401-700 kWh và từ 701 kWh trở lên được thiết kế nhằm bù trừ doanh thu cho các bậc thấp.

Theo Bộ Công Thương, ưu điểm của phương án này là đơn giản, người dân dễ hiểu do giảm từ 6 bậc như cơ cấu biểu giá điện hiện nay xuống còn 5 bậc giá điện.

Ghép các bậc lại với nhau để tăng khoảng cách mức tiêu thụ điện giữa các bậc và nới rộng khoảng cách mức tiêu thụ của bậc cao hơn, nhằm phản ánh tình hình thực tế tiêu thụ điện và khuyến khích việc sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả hơn. Đồng thời hạn chế được một phần việc tiền điện phải trả tăng cao trong những tháng đổi mùa.

Giữ nguyên giá điện hiện hành cho bậc đầu từ 0-100 kWh.

Bộ Công Thương cho rằng, mức tăng giá giữa các bậc là hợp lý, chênh lệch giữa bậc đầu và bậc cuối cùng là 2 lần, phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới nhằm khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả thông qua việc tăng chênh lệch giá giữa bậc thang đầu và bậc thang cuối.

Các hộ có mức sử dụng điện từ 710 kWh trở xuống (chiếm khoảng 98% số hộ) sẽ có tiền điện phải trả giảm đi.

Nhược điểm của phương án này là tiền điện các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện cao từ 711 kWh/tháng trở lên (chiếm khoảng 2% số hộ) phải trả tăng thêm.

Theo báo cáo và tính toán của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và tư vấn tại Đề án cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện thì hiện giá bán điện cho sản xuất đang không phản ánh đúng, đủ chi phí sản xuất, kinh doanh điện (thấp hơn so với chi phí phân bổ).

Bộ Công Thương cho rằng, có thể áp dụng ngay phương án giá điện cơ sở lưu trú du lịch bằng giá điện sản xuất để đảm bảo lộ trình từng bước tính đúng, tính đủ chi phí cho nhóm khách hàng sản xuất.

Theo đó phần thiếu hụt doanh thu do bổ sung nhóm khách hàng “cơ sở lưu trú du lịch” có thể được xem xét để bù từ giá bán điện cho giờ thấp điểm của nhóm khách hàng sản xuất từ 4% đến 8% so với giá bán lẻ điện bình quân do hiện nay giá giờ thấp điểm của nhóm khách hàng này thấp hơn nhiều so với giá bán lẻ điện bình quân (từ 52% đến 56%).

Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là các doanh nghiệp sản xuất sẽ chịu tác động tăng giá từ 1,27% đến 3,85%, gây tác động bất lợi đến các ngành sản xuất.

Theo CAND

Thắp sáng vùng cao

7 - Thứ Tư, 22/11/2023 Lượt xem: 78  In bài viết
 

 

 

ĐBP - Điện Biên Đông là huyện vùng cao, địa hình phức tạp, có nhiều thôn, bản, nhóm dân cư sinh sống rải rác nên việc kéo điện lưới quốc gia về các bản vùng cao, vùng sâu gặp rất nhiều khó khăn. Trung tuần tháng 11/2023, UBND huyện đóng điện công trình tại 2 bản Tồng Sớ và Ao Cá (xã Pú Hồng) trong niềm vui mừng khôn tả cho bà con khi được sử dụng điện lưới quốc gia.

Nỗ lực khắc phục khó khăn

Công trình hệ thống điện sinh hoạt 2 bản: Tồng Sớ và Ao Cá có tổng mức đầu tư 5,2 tỷ đồng, cấp điện cho 36 hộ dân bản Tồng Sớ và 45 hộ dân bản Ao Cá. Công trình khởi công từ đầu tháng 4/2023 gồm các hạng mục: 1 trạm biến áp tại bản Tồng Sớ với 3,8km đường dây trung thế và 0,7km đường dây hạ thế; 1 trạm biến áp tại bản Ao Cá với 1,4km đường dây hạ thế.

Hai bản Tồng Sớ và Ao Cá là các bản xa nhất của xã Pú Hồng - một trong những xã khó khăn nhất huyện Điện Biên Đông. Do đó, việc triển khai thực hiện công trình điện về 2 bản trên gặp rất nhiều khó khăn.

Ông Đinh Quang Bạo, Trưởng phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Điện Biên Đông cho biết: Công trình khó khăn ngay từ bước tư vấn, khảo sát thiết kế. Các đơn vị liên quan phải đi thực tế, khảo sát rất nhiều lần mới cho ra được phương án tối ưu vừa đảm bảo hiệu quả đầu tư vừa tiết kiệm nguồn vốn. Do 2 bản đều nằm sâu trong rừng, phương án thiết kế phải tránh các diện tích rừng; đường dây phần lớn phải đi men theo đường giao thông và đi qua các diện tích nương của người dân. Do đó, các đơn vị phải lập ra nhiều phương án để lựa chọn phương án phù hợp nhất.

 

 

Chính vì hệ thống cột điện và đường dây phải đi qua các diện tích nương sản xuất của nhiều hộ dân dẫn đến khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng dự án. Thời điểm đầu triển khai công trình, nhiều hộ dân không đồng thuận hiến đất, bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công. Đồng thời, yêu cầu chủ đầu tư phải chi trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Trong khi đó các dự án đưa điện về vùng cao không có kinh phí giải phóng mặt bằng, tất cả công trình đều thực hiện theo phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”. Đơn vị chủ đầu tư, nhà thầu thi công đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền xã Pú Hồng tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền, vận động để người dân 2 bản hiểu rõ chủ trương, chính sách nhà nước, lợi ích của việc đưa điện điện lưới quốc gia về thôn, bản. Những buổi tuyên truyền đầu tiên không mang lại kết quả như mong đợi. Các buổi họp dân tiếp theo, xã Pú Hồng đã huy động các già làng, người có uy tín trong bản, đồng thời phát huy tinh thần tiên phong của các đảng viên trong việc hiến đất làm công trình điện. Dần dần, các hộ dân đều noi theo và đồng thuận hiến đất. Nhiều hộ có điều kiện quá khó khăn, các đơn vị đã đến tận nhà vận động, nhà thầu hỗ trợ mở đường vào khu sản xuất, san gạt nền nhà… Nhờ đó 100% các hộ dân vùng dự án đã hiến đất, bàn giao mặt bằng sạch cho nhà thầu.

Do địa hình các bản phức tạp, hệ thống giao thông chưa đầu tư đồng bộ, vị trí chôn cột điện có độ dốc lớn đã gây nhiều khó khăn trong quá trình vận chuyển vật liệu, cột điện vào thi công.

Ông Nguyễn Đình Học, Giám đốc Công ty TNHH Hoàng Trung Điện Biên – nhà thầu thi công, cho biết: Điều kiện thi công khó khăn song với sự nỗ lực, cố gắng của công ty, sự hỗ trợ nhiệt tình của người dân 2 bản, các hạng mục công trình đã được triển khai thuận lợi. Do đó, tiến độ công trình được đẩy nhanh, hoàn thành vượt kế hoạch hợp đồng với chủ đầu tư 8 tháng.

Niềm vui ngày có điện

7 giờ sáng, sương mù theo làn gió lạnh bay qua đỉnh núi, 36 hộ dân bản Tồng Sớ đã tập trung tại khu vực trạm biến áp đặt tại bản để chờ các đơn vị vào đóng điện. Khi cán bộ điện lực đóng điện thành công, dân bản Tồng Sớ vỗ tay reo hò, niềm vui hiện rõ trên từng khuôn mặt.

 

 

Anh Thào A Tà, Trưởng bản Tồng Sớ cho biết: Bản có 36 hộ dân thì 31 hộ nghèo và 5 hộ cận nghèo. Cuộc sống người dân rất khó khăn, thiếu thốn. Không có điện là rào cản lớn nhất trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Có điện lưới quốc gia thắp sáng các cháu học sinh chấm dứt cảnh học dưới ánh đèn pin, đèn dầu. Có điện sẽ tạo các điều kiện thuận lợi cho người dân nâng cao đời sống.

Cầm trên tay túi đựng: Bảng điện, bóng điện và gần 10m dây điện đi tham dự buổi lễ đóng điện, chị Hờ Thị Cứ, bản Tồng Sớ cho biết: Biết tin hôm nay các cơ quan vào bản đóng điện, từ sáng sớm tôi đã xuống trung tâm xã mua các thứ này để nhờ cán bộ điện lực đến nhà lắp giúp. Có điện tôi mừng lắm!

 

 

Còn anh Thào A Pó, bản Tồng Sớ phấn khởi nói: “Ngày mai tôi sẽ đi đăng kí điện 3 pha để làm dịch vụ xay xát. Trước đây, tôi làm dịch vụ này song động cơ chạy bằng dầu diezen vừa tốn kém vừa hiệu quả thấp. Tôi vừa được cán bộ điện lực huyện tư vấn, nếu đăng kí ngay thì trước Tết Nguyên đán tôi sẽ được lắp đặt và sử dụng dòng điện 3 pha để làm dịch vụ xay xát phục vụ gia đình và bà con trong bản”.

Điểm trường Mầm non Tồng Sớ có 2 cô giáo và 29 trẻ. Cơ sở vật chất đã được đầu tư khá khang trang, phòng học xây dựng kiên cố, được trang bị đầy đủ quạt trần và hệ thống bóng điện nhưng nhiều năm qua, cô và trò ở đây chưa có cơ hội sử dụng vì chưa có điện.  

Cô giáo Lò Thị Thu, giáo viên Điểm trường Mầm non Tồng Sớ cho biết: Quá nhiều khó khăn khi không có điện. Đối với học sinh, giờ ngủ trưa nắng nóng không có quạt. Còn mùa đông trời thường âm u, trong lớp rất tối. Với giáo viên, sau 1 ngày dạy học lại phải đi xe máy về điểm trường trung tâm cách 5km để soạn giáo án. Hôm nay, bản Tồng Sớ được đóng điện, chúng tôi thật sự vui mừng. Có điện lưới sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tại điểm trường Tồng Sớ.  

 

 

Được biết, năm 2023 huyện Điện Biên Đông triển khai thực hiện các công trình cấp điện sinh hoạt cho 8 bản vùng sâu, vùng xa; trong đó công trình tại 2 bản Tồng Sớ và Ao Cá là công trình đầu tiên hoàn thành. Dự kiến, các công trình còn lại sẽ hoàn thành và đóng điện trước Tết Nguyên đán năm 2024. Có điện, cuộc sống bà con vùng cao Điện Biên Đông bước sang một trang mới, tạo điều kiện để người dân xóa đói giảm nghèo.

Bài, ảnh: Nhật Phương

 

Vốn tín dụng góp phần xây dựng nông thôn mới

ĐBP - Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới (NTM), thời gian qua, Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tủa Chùa đã tích cực triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. Từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, nhiều hộ dân tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã đầu tư trồng trọt, chăn nuôi, mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm và nâng cao thu nhập, góp phần hoàn thành các tiêu chí NTM.

Cán bộ Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tủa Chùa kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn vay của gia đình anh Ðiêu Chính Luyến, thôn Huổi Lực, thị trấn Tủa Chùa.

Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tủa Chùa đã chủ động xây dựng kế hoạch, và thực hiện tuyên truyền, đào tạo, tập huấn nghiệp vụ quản lý vốn tín dụng chính sách xã hội cho 100% các cấp hội, đoàn thể nhận ủy thác, trong đó, chú trọng nguồn vốn vay giảm nghèo, xây dựng NTM. Nhờ đó, các đối tượng chính sách, hộ nghèo, cận nghèo hay khó khăn về nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh dễ dàng tiếp cận vốn vay ưu đãi để đầu tư làm ăn, nâng cao đời sống.

Ðến nay, vốn tín dụng chính sách xã hội đã “phủ sóng” đến 100% xã, thị trấn trong toàn huyện, trong đó tập trung ưu tiên cho vay ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn và đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào địa bàn có tỷ lệ hộ nghèo cao, các xã xây dựng NTM. Nguồn vốn tín dụng chính sách được lồng ghép với công tác khuyến nông, lâm nghiệp, chuyển đổi cây trồng vật nuôi nhằm thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo bền vững và xây dựng NTM tại địa phương.

Trước đây, gia đình anh Ðiêu Chính Luyến là một trong những hộ nghèo của thôn Huổi Lực, thị trấn Tủa Chùa. Năm 2018, gia đình anh được tiếp cận chương trình vốn vay sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm từ Ngân hàng Chính sách xã hội với số tiền 100 triệu đồng. Gia đình anh Luyến đã đầu tư mô hình vườn, ao, chuồng. Nhờ sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả nên gia đình anh đã có nguồn thu nhập ổn định và thoát được nghèo. Anh Luyến chia sẻ: Vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội tôi đã đầu tư chuồng trại chăn nuôi trâu, lợn, gà và đào ao nuôi cá. Ðến nay mô hình kinh tế của gia đình tôi phát triển tốt, cho thu nhập mỗi năm từ 80 - 100 triệu đồng.

Trường hợp của gia đình anh Luyến là một trong những điển hình về sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay để thoát nghèo, góp phần xây dựng NTM trên địa bàn huyện. Theo thống kê, hiện nay Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tủa Chùa đang thực hiện 15 chương trình cho vay. Năm 2022, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách cho vay trên 422 tỷ đồng với 8.101 hộ nghèo và đối tượng chính sách được vay. Ðến tháng 10/2023, tổng dư nợ các chương trình tín dụng trên địa bàn hơn 455 tỷ đồng, với 8.335 hộ vay vốn còn dư nợ. Một số chương trình có doanh số cho vay lớn, như: Cho vay hộ nghèo gần 33 tỷ đồng; cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn gần 13 tỷ đồng; hộ nghèo, cận nghèo gần 5,6 tỷ đồng; cho vay hộ mới thoát nghèo gần 3 tỷ đồng… Ðặc biệt là nguồn vốn triển khai cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi dư nợ đạt hơn 7 tỷ đồng, chiếm 1,58% tổng dư nợ; hơn 180 hộ được vay vốn sửa chữa, làm mới nhà ở. Mỗi hộ gia đình được vay tối đa 40 triệu đồng từ nguồn vốn tín dụng chính sách.

Theo đánh giá của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tủa Chùa, nguồn vốn tín dụng chính sách đã góp phần thay đổi diện mạo khu vực nông thôn, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng được hoàn thiện, giá trị văn hóa được bảo tồn, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên. Mặc dù đến nay, huyện Tủa Chùa chưa có xã được công nhận đạt chuẩn NTM, nhưng đây là tiền đề, điều kiện để huyện nỗ lực phấn đấu xây dựng NTM. Thời gian tới Ngân hàng Chính sách xã hội tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức hội nhận ủy thác nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động giao dịch tại xã, hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn. Thường xuyên rà soát, thống kê số hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu vay vốn để tạo điều kiện cho vay vốn kịp thời, góp phần thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng NTM trên địa bàn huyện.

Bài, ảnh: Quốc Huy

 

Huyện Điện Biên Đông đóng điện 2 bản vùng cao

ĐBP - Hệ thống điện sinh hoạt 2 bản Tồng Sớ và Ao Cá thuộc dự án hệ thống điện sinh hoạt các bản vùng cao xã Pú Hồng, huyện Điện Biên Đông đã đóng điện đưa vào vận hành ngày 16/11.

Đóng điện hộp hạ thế trạm biến áp bản Tồng Sớ.

Công trình hệ thống điện sinh hoạt 2 bản: Tồng Sớ và Ao Cá có tổng mức đầu tư 5,2 tỷ đồng, cấp điện cho 36 hộ dân bản Tồng Sớ và 45 hộ dân bản Ao Cá. Công trình khởi công từ đầu tháng 4/2023. Sau hơn 6 tháng thi công, đơn vị nhà thầu đã hoàn thành các hạng mục xây dựng 1 trạm biến áp tại bản Tồng Sớ với 3,8km đường dây trung thế và 0,7km đường dây hạ thế; 1 trạm biến áp tại bản Ao Cá với 1,4km đường dây hạ thế. Công trình hoàn thành sớm 8 tháng so với hợp đồng ký kết giữa nhà thầu và chủ đầu tư (Phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Điện Biên Đông). Công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn 2 bản Tồng Sớ và Ao Cá.

Nhân viên Điện lực Điện Biên Đông hướng dẫn người dân lắp đặt, sử dụng thiết bị điện.

Được biết, năm 2023 huyện Điện Biên Đông triển khai thực hiện các công trình cấp điện sinh hoạt cho 8 bản vùng sâu, vùng xa; trong đó công trình hệ thống điện sinh hoạt 2 bản Tồng Sớ và Ao Cá là công trình đầu tiên hoàn thành. Dự kiến, các công trình còn lại sẽ hoàn thành và đóng điện trước Tết Nguyên đán năm 2024.

Tin, ảnh: Phạm Trung

Mùa cà phê ở Tỏa Tình

ĐBP - Kể từ khi cây cà phê được đưa về trồng trên nương đã đem đến cho người Mông tại xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo những vụ mùa bội thu. Nhờ đó, nhiều gia đình ở Tỏa Tình đã có của ăn, của để, vươn lên làm giàu. Thời điểm này, cà phê đang vào vụ thu hoạch, bà con nông dân rất phấn khởi vì cà phê được mùa, được giá.

Anh Lầu A Páo, bản Chế Á, xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo thu hái cà phê.

Ðến xã Tỏa Tình vào những ngày này, trên khắp các triền đồi là những cây cà phê trĩu quả đỏ rực xen lẫn trong tán lá xanh. Với người trồng cà phê, đây là mùa vất vả nhưng cũng là mùa vui nhất trong năm, bởi họ được thu về thành quả sau một năm vun trồng, chăm bón. Ông Lê Ngọc Sơn, Bí thư Ðảng ủy xã Tỏa Tình cho biết: “Hiện nay trên địa bàn xã có trên 354ha cà phê. Cây công nghiệp chủ lực này đã đem lại nguồn thu chính cho nông dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vụ thu cà phê năm nay dự báo được mùa, được giá, đa số các vườn cây đều sai quả, dịch bệnh không đáng kể, giúp hàng trăm hộ dân cải thiện và tăng thu nhập. Theo nhiều người dân trồng cà phê, mọi năm, vào đầu vụ, giá cà phê thấp, sau đó mới dần nhích lên ở thời điểm giữa và cuối vụ. Thế nhưng năm nay, mới bắt đầu vụ thu hoạch, giá cà phê đã ở mức khá cao, bình quân đạt 12.000 đồng/kg, có thời điểm đạt tới 15.000 đồng/kg. Nếu diễn biến giá cả vẫn giữ ổn định cho đến cuối vụ, các hộ trồng cà phê sẽ có vụ mùa thắng lợi”.

Hơn 3ha cà phê của gia đình bà Vàng Thị Sai, ở bản Hua Sa A được gần 5 năm tuổi, mỗi năm cho thu hoạch trên 15 tấn quả tươi. Năm nay, mới đầu mùa giá thu mua đã 12.000 đồng/kg gia đình bà rất vui và phấn khởi, đổi công nhờ chị em trong bản đến thu hái giúp.

Còn gia đình anh Lầu A Páo, ở bản Chế Á cũng canh tác gần 3ha cà phê. Ðến thời điểm này gia đình anh đang tập trung thu hái những cây chín rộ. Anh Páo cho hay: Hiện cà phê chưa chín đều nên gia đình không hái toàn bộ. Vì thu hoạch như vậy dù tốn ít công hơn nhưng lượng trái xanh lẫn nhiều nên khi bán chắc chắn sẽ không được giá. Do đó gia đình anh chủ động thu hái cà phê thành nhiều đợt.

Xã Tỏa Tình có 7 bản, cà phê được trồng nhiều nhất ở các bản Hua Sa A, B, Háng Tầu, Chế Á. Người dân ở các bản này chủ động chuyển đổi một phần diện tích sản xuất nông nghiệp bạc màu sang trồng cà phê và đã có nhiều gia đình thoát nghèo nhờ vào cây nông nghiệp này. Bản Hua Sa B có 46 hộ thì hầu như hộ nào cũng trồng cà phê, hộ ít vài nghìn mét, hộ nhiều trồng được vài hec ta. Vào vụ thu hoạch cà phê, người dân chỉ cần thu hái, tập kết ở bên đường là có thương lái đến tận vườn thu mua, nên không khó khăn trong việc tìm đầu ra.

Ngày ngày, trên nương, người nông dân hối hả hái cà phê từ sáng sớm đến chiều muộn, khi ánh mặt trời bắt đầu khuất bóng sau dãy núi thì cũng là lúc người dân xã Tỏa Tình rộn lên tiếng xe máy chở cà phê trên nương về. Những khuôn mặt rám nắng với bộ quần áo nhuốm màu nhựa cà phê tươi nhưng đều ánh lên nụ cười vui, như quên hết nỗi nhọc nhằn của một ngày vất vả hái cà trên nương xa; bởi công sức, sự vất vả họ bỏ ra trong cả một năm dài được bù đắp xứng đáng.

Bài, ảnh: Lường Phượng (Huyện Tuần Giáo)

 

Động lực giữ rừng của người dân Mường Tùng

 

 

ĐBP - Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) mang lại nguồn thu nhập ổn định và là động lực giữ rừng của người dân xã Mường Tùng (huyện Mường Chà). Theo thống kê của Hạt Kiểm lâm huyện Mường Chà, năm 2022, 9 cộng đồng dân cư và UBND xã Mường Tùng được hưởng số tiền DVMTR hơn 4 tỷ đồng, chưa tính diện tích rừng Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện giao khoán cho các hộ dân. Với số tiền hưởng lợi từ DVMTR lớn hơn thu nhập chung của người dân vùng sâu, vùng xa đã tạo động lực để các cộng đồng yên tâm giữ rừng.

 

 

Mường Tùng là xã có diện tích rừng tương đối lớn của huyện Mường Chà với diện tích hơn 10.000ha. Hiện nay, UBND xã đang quản lý gần 1.670ha rừng; còn lại khoán cho các cộng đồng bảo vệ. Bản Pom Cại có hơn 370ha rừng được chi trả DVMTR. Với số tiền chi trả hơn 700 nghìn đồng/ha/năm, bà con dân bản được hưởng số tiền trên 260 triệu đồng/năm. Được nhận số tiền trên, bản Pom Cại đã sử dụng cho các hoạt động chung của bản, sửa chữa các công trình phúc lợi cộng đồng; còn lại chi cho người dân tham gia quản lý, bảo vệ rừng. Nhờ được nhận tiền chi trả DVMTR hàng năm, người dân đã nâng cao ý thức, tích cực đồng hành cùng chính quyền địa phương trong công tác quản lý, bảo vệ rừng.

Ông Lò Văn Thân, bản Pom Cại, xã Mường Tùng chia sẻ: “Từ khi được nhận tiền DVMTR, dân bản đã ý thức hơn trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Bà con tích cực tham gia tuần tra bảo vệ và PCCCR, bảo vệ diện tích rừng trên địa bàn. Hàng tháng, dân bản tự nguyện ký cam kết bảo vệ rừng, PCCCR, không xâm hại, khai thác lâm sản trái phép. Chuyển biến tích cực ấy phần nhiều nhờ vào những lợi ích mà chính sách chi trả DVMTR mang lại”.

Không chỉ người dân bản Pom Cại, ý thức giữ rừng của người dân bản Mường Tùng, xã Mường Tùng cũng có nhiều thay đổi kể từ khi được hưởng tiền DVMTR. Ông Lò Văn Tuấn, bản Mường Tùng cho biết: Hiện nay, cộng đồng bản đang nhận quản lý, bảo vệ trên 520ha rừng và mỗi năm hưởng 370 triệu đồng DVMTR. Số tiền này giúp bản xây dựng các công trình phúc lợi, cải thiện cuộc sống, bà con có thêm điều kiện cho con em ăn học. Thực hiện chính sách chi trả DVMTR, bà con dân bản đã có ý thức trách nhiệm trong công tác quản lý bảo vệ rừng và PCCCR...

 

 

Khi người dân chung tay với cấp ủy, chính quyền quản lý, bảo vệ rừng đã góp phần quan trọng nâng cao độ che phủ rừng. Diện tích rừng do cộng đồng, nhân dân và chính quyền xã Mường Tùng quản lý bảo vệ ngày càng xanh tốt với tỷ lệ che phủ tăng lên từng năm. Ông Lò Văn Hùng, Chủ tịch UBND xã Mường Tùng cho biết: Diện tích rừng trên địa bàn xã được quản lý, bảo vệ tốt có một phần đóng góp không nhỏ của nhân dân. Đặc biệt là khi bà con được hưởng tiền DVMTR, đời sống ổn định hơn nên tình trạng phá rừng làm nương, khai thác lâm sản cũng hạn chế. Tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn xã tăng từ 55,24% (cuối năm 2020) lên 60,17% (năm 2022). Ngoài những tác động tích cực của chính sách chi trả DVMTR, Đảng ủy, chính quyền xã Mường Tùng thường xuyên tuyên truyền pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng cho người dân nâng cao trách nhiệm giữ rừng. Chúng tôi đã giải thích để người dân biết được lợi ích thiết thực của việc bảo vệ tốt diện tích rừng trên địa bàn sẽ được chi trả tiền DVMTR cao hơn nên bà con đã ý thức hơn, không xâm phạm, phá rừng, khai thác lâm sản trái phép.

 

 

Nhằm nâng cao vai trò giữ rừng của địa phương, xã đã thành lập Ban Quản lý, bảo vệ rừng thường xuyên phối hợp với các tổ, đội tuần tra, PCCCR của bản tuần tra, kiểm tra rừng. Đối với những khu vực rừng có nguy cơ bị xâm phạm, khai thác lâm sản trái phép hay khả năng xảy ra cháy cao, xã đã yêu cầu cán bộ cũng như tổ, đội của bản đi kiểm tra liên tục, cả những ngày nghỉ. Cùng với đó, tổ chức cho người dân ký cam kết bảo vệ và PCCCR hàng năm. Hầu hết hộ dân trên địa bàn xã đã nghiêm chỉnh chấp hành ký cam kết bảo vệ và PCCCR. Để thực hiện việc chi trả tiền DVMTR cho đúng đối tượng, cấp ủy, chính quyền tổ chức đánh giá kết quả giữ rừng của từng cộng đồng và phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện, cơ quan chức năng rà soát diện tích rừng trên địa bàn theo từng năm làm cơ sở thanh toán tiền DVMTR cho các cộng đồng.

Việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cùng với tiến hành chi trả đầy đủ, chính xác và khách quan tiền DVMTR cho các chủ rừng đã và đang làm thay đổi nhận thức của nhân dân xã Mường Tùng trong công tác giữ rừng; góp phần tạo động lực, thúc đẩy cộng đồng dân cư và nhân dân tiếp tục quản lý, bảo vệ tốt diện tích rừng được giao, giúp nâng cao tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn.

Bài, ảnh: Quang Hưng

 

  • 1
  • ...
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • ...
  • 33

 

HỆ THỐNG PHẢN ÁNH THÔNG TIN TỈNH ĐIỆN BIÊN      

 

Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên

Địa chỉ: Tổ 04, phường Nam Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Chịu trách nhiệm chính: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên

Điện thoại: 0251.3835.666

Email: paht@dienbien.gov

Chung nhan Tin Nhiem Mang ỨNG DỤNG DI ĐỘNG

TẢI ỨNG DỤNG NGAY

Android IOS

Mô tả hình ảnh 1 Mô tả hình ảnh 2 Mô tả hình ảnh 3

 

 

#

#

#

#

Gửi lại mã xác thực en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập

Vui lòng nhập mã xác thực chúng tôi đã gửi vào số điện thoại của bạn en

Vui lòng nhập mã xác thực

Nếu bạn đăng ký thông tin sai! Vui lòng click vào đây để đăng ký lại thông tin tài khoản! en
OTP sẽ hết hạn sau

Cập nhật thông tin en

Đăng ký tài khoản en

Vui lòng chọn đối tượng đăng ký
Vui lòng nhập họ tên
Vui lòng nhập CMND/CCCD
Vui lòng nhập số điện thoại/ Số điện thoại không đúng
Vui lòng nhập mã số thuế
Vui lòng chọn lĩnh vực
Vui lòng chọn loại văn bản
Vui lòng nhập mật khẩu
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập xác nhận mật khẩu/ Xác nhận mật khẩu không đúng
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt

Đăng nhập en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập
Vui lòng nhập mật khẩu
Quên mật khẩu en
Nếu tài khoản của bạn chưa kích hoạt? Click vào đây để gửi lại mã xác nhận! en