Tìm kiếm
  • Phản ánh hiện trường
  • Chuyên mục
    • Chính trị - Kinh tế
      • Kinh tế - Thị trường
      • Chính trị - Kinh tế
    • Văn hóa - Xã hội
      • Văn hóa - Xã Hội
      • Thời tiết - Thiên tai
      • Văn hóa, Du lịch
      • Chuyển đổi số
    • An ninh - Quốc phòng
      • Trật tự đô thị
      • Vi phạm giao thông
      • Vi phạm pháp luật
      • An ninh - Quốc phòng
    • Cơ sở hạ tầng
      • Cơ sở hạ tầng
      • Hạ tầng điện, viễn thông
      • Trật tự xây dựng
      • Kiểm tra - Giám sát
    • Y tế - Giáo dục
      • Vệ sinh an toàn thực phẩm
      • Thông tin dịch bệnh
      • Giáo dục - Y tế
      • Y tế
    • Môi trường
      • Vệ sinh môi trường
    • Thông tin
      • Thông tin
    • Khác
      • Lĩnh vực khác
      • Thống kê
  • Giới thiệu
  • Hướng dẫn
  • Bản đồ
  • IOS Android
  • Đăng nhập
  • Đăng ký
IOS Android
  1. Trang chủ
  2. Tin mới

Chính trị - Kinh tế

Chính trị - Kinh tế

Thực hiện hiệu quả 5 việc, 4 nội dung nâng cao đời sống các dân tộc thiểu số (*)

(Phát biểu của đồng chí Lê Thành Đô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh tại Đại hội đại biểu DTTS tỉnh lần thứ IV)

ĐBP - ...Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc, coi việc chăm lo cuộc sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số là trách nhiệm, nghĩa vụ và là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” và Người dạy: Đồng bào các dân tộc Việt Nam là con một nhà, cây một cội, do vậy, cần phải đoàn kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết// Thành công, thành công, đại thành công” tất cả vì một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng tiếp tục khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của nước ta”.

Đồng chí Lê Thành Đô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại Đại hội đại biểu DTTS tỉnh lần thứ IV.

Quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối và chỉ đạo của Trung ương về công tác dân tộc, thời gian qua, tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Huy động, lồng ghép nhiều nguồn lực từ các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chương trình mục tiêu quốc gia để tập trung nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh.

Đến nay, chúng ta vui mừng nhận thấy, diện mạo vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh đã có những đổi thay tích cực. Kinh tế liên tục tăng trưởng qua các năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình, điểm sáng về sản xuất nông, lâm nghiệp hiệu quả gắn với từng bước hình thành các vùng nguyên liệu tập trung như cà phê, mắc ca, chè, cao su, dược liệu; các mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng ở Nậm Pồ, Mường Lay, Điện Biên, Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Nhé... thu hút ngày càng đông du khách, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng, đồng thời từng bước thay đổi tư duy, nếp nghĩ, cách làm của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh nhà.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong vùng được quan tâm đầu tư; các lĩnh vực y tế, văn hóa - giáo dục có nhiều tiến bộ. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đã được cải thiện, một số vấn đề bức thiết như: xóa nhà tạm, bố trí ổn định dân cư, chuyển đổi nghề cho hộ gia đình thiếu đất sản xuất… được tập trung giải quyết có hiệu quả; tỷ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh, từ 34,9% năm 2021 hiện còn 25,68%.

An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững. Công tác đối ngoại của cấp ủy, chính quyền và nhân dân hai bên biên giới Việt - Lào, Việt - Trung được chú trọng, ngày càng đi vào chiều sâu. Hệ thống chính trị cơ sở được tăng cường; công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được quan tâm.

Các phong trào thi đua yêu nước đã được đồng bào dân tộc thiểu số tích cực hưởng ứng, tham gia có hiệu quả, nhất là phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau”; “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; “Mái ấm cho người nghèo biên giới’’, “Triệu tấm lòng yêu thương - Nghìn mái nhà hạnh phúc”... đặc biệt là phong trào thi đua “Lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ",… Từ đó, xuất hiện nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trên các lĩnh vực, được các cấp, các ngành tuyên dương, khen thưởng. Những kết quả đó đã đóng góp rất quan trọng vào thành tựu phát triển chung của tỉnh thời gian qua.

Thay mặt lãnh đạo tỉnh, tôi trân trọng ghi nhận, biểu dương những nỗ lực, những thành tích mà cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc thiểu số của tỉnh đã đạt được trong thời gian qua.

...Đại hội đại biểu dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên lần thứ IV diễn ra trong thời điểm toàn tỉnh đang quyết tâm, nỗ lực thi đua, phấn đấu thực hiện, hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2020-2025, lập thành tích chào mừng Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Trong đó, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh đứng trước nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách thức.

Đời sống đồng bào tuy được cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn nhiều vất vả; kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn tiềm ẩn yếu tố mất ổn định, dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng. Việc triển khai thực hiện một số chính sách dân tộc có nơi, có thời điểm chưa tốt. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và đồng bào vẫn còn biểu hiện thiếu quyết tâm vượt khó vươn lên.

Quang cảnh Đại hội.

Tôi bày tỏ thống nhất cao với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc giai đoạn 2024 - 2029 được nêu trong Báo cáo chính trị và các ý kiến tham luận tại Đại hội. Đặc biệt là ý kiến phát biểu chỉ đạo của Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong giai đoạn tới. Tôi đề nghị Đại hội tiếp thu ý kiến phát biểu chỉ đạo và các ý kiến tham luận tại Đại hội để bổ sung, cụ thể hóa vào Quyết tâm thư Đại hội giai đoạn 2024-2029. Tại Đại hội này, tôi nhấn mạnh và gợi mở một số nội dung như sau:

Với nhân dân các dân tộc thiểu số của tỉnh, thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, tôi mong thực hiện tốt 5 việc:

Thứ nhất: Nhân dân các dân tộc thiểu số tiếp tục giữ tình đoàn kết. Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được các thế hệ bền bỉ xây dựng, vun đắp, bằng mồ hôi, công sức, bằng sự nhọc nhằn, hy sinh; bằng ý chí, sức mạnh và niềm tin của lòng dân. Trước những thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực như hiện nay, hơn bao giờ hết, cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc trong tỉnh phải tiếp tục phát huy cao độ khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh để vượt qua khó khăn, thử thách, cùng nhau xây dựng bản làng ấm no, quê hương giàu đẹp. Sức mạnh đoàn kết phải được bắt đầu từ tình thương yêu trong mỗi gia đình; sự gắn kết giữa các dòng họ; tinh thần tương trợ, “tối lửa tắt đèn có nhau” giữa các hộ dân; kết nghĩa, sẻ chia giữa các bản làng, đoàn kết giữa các dân tộc...

Thứ hai: Nhân dân các dân tộc thiểu số tiếp tục giữ tài nguyên đầu nguồn. Có thể nói, với không gian rộng lớn trên 9.539km2, vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi của tỉnh là nơi sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, quý giá, nhất là rừng, nước, khoáng sản. Nơi đây là không gian sống, điều kiện sống, là sinh kế hàng ngày của đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng thời là khu vực dễ bị tổn thương. Mỗi tác động tiêu cực, bất hợp lý ở khu vực đầu nguồn có ảnh hưởng sâu sắc tới môi trường, hệ sinh thái chung của cả tỉnh, cả nước, thậm chí là toàn cầu.

Do vậy, bên cạnh trách nhiệm của các cấp, các ngành, đồng bào dân tộc thiểu số luôn nêu cao ý thức giữ rừng, giữ nước đầu nguồn như chính cuộc sống của mình. Cùng nhau lên án và chặn đứng tệ nạn khai thác, chặt phá rừng, khai thác tài nguyên trái phép. Nỗ lực thay đổi tập tục canh tác theo hướng bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực đến tài nguyên đầu nguồn, góp phần quan trọng phòng, chống thiên tai và biến đổi khí hậu.

Thứ ba: Nhân dân các dân tộc thiểu số trong tỉnh tiếp tục giữ gìn bản sắc văn hóa. Tỉnh ta có tới 18 dân tộc thiểu số, đồng nghĩa có 18 giá trị, bản sắc văn hóa khác nhau, tạo nên bức tranh đậm màu sắc, phong phú và đa dạng. Tuy vậy, trước những thay đổi nhanh chóng của thời đại, nhiều văn hóa tốt đẹp của đồng bào đang đứng trước những thách thức không nhỏ.

Do đó đồng bào ta hãy luôn nâng niu, tự hào và giữ gìn văn hóa của dân tộc mình. Đó là truyền dạy cho con cháu mình biết yêu, biết nói, biết viết chữ của tổ tiên để lại; biết hát các bài hát, nhảy các điệu múa, nấu các món ăn, mặc trang phục của dân tộc mình trong mỗi sự kiện, lễ hội quan trọng. Truyền dạy cho con cháu về đức tính cần cù, chịu khó, thật thà, tốt bụng; về lòng yêu nước, về tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc; về ý thức chấp hành pháp luật. Động viên, khuyến khích con cháu nỗ lực học tập vì ngày mai tươi sáng. Đồng thời kiên quyết bài trừ các hủ tục, mê tín, dị đoan, nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống...

Thứ tư: Nhân dân các dân tộc thiểu số trong tỉnh tiếp tục tự tin, tự lực, tự cường, vượt khó vươn lên. Có thể nói, Đảng, Nhà nước và tỉnh ta đã, đang tập trung, ưu tiên dành nhiều nguồn lực quan trọng hỗ trợ phát triển vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có các chương trình mục tiêu quốc gia. Những nguồn lực này là bước đầu, là điều kiện cần nhưng chưa thể đủ so với những thiếu thốn, khó khăn, thách thức ở nơi đây. Để có những vườn cây ăn quả, mắc ca, cà phê, chè dọc sườn đồi, những vườn dược liệu quý hiếm, có giá trị cao dưới tán rừng, những đàn gia súc, gia cầm số lượng lớn... thì ý chí, quyết tâm vượt khó của bà con ta phải đủ lớn, dám mạnh dạn thay đổi và lao động chăm chỉ; biết tận dụng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh và các nguồn lực huy động khác.

Thứ năm: Nhân dân các dân tộc thiểu số trong tỉnh tiếp tục giữ yên biên giới. Trên tuyến biên giới dài hơn 455km của tỉnh, ngoài lực lượng chức năng, đồng bào các dân tộc thiểu số chính là “tai mắt”, là “cột mốc sống” vùng biên cương. Mong rằng, mỗi đồng bào ta luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực tham gia tuần tra canh gác, tố giác tội phạm; tham gia các hoạt động đối ngoại nhân dân hai bên biên giới Việt - Lào, Việt - Trung góp phần giữ được “trong ấm ngoài êm”.

Để đồng bào các dân tộc thiểu số của tỉnh thực hiện tốt 5 việc trên, đề nghị cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành của tỉnh triển khai nghiêm túc, có hiệu quả 4 nội dung sau:

Một là: Tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng, có tính chiến lược, lâu dài trong quá trình phát triển của tỉnh. Bám sát các chương trình mục tiêu quốc gia, nhiệm vụ của tỉnh về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai kịp thời, đạt hiệu quả cao; quyết tâm, nỗ lực thi đua, phấn đấu thực hiện, hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2020-2025, lập thành tích chào mừng Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Hai là: Tiếp tục ưu tiên bố trí nguồn lực để đầu tư, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhất là về giao thông, điện, giáo dục, y tế, thông tin truyền thông, nước sạch, văn hóa, thể thao, dịch vụ thương mại ... tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền. Chú trọng đổi mới và tổ chức lại phương thức sản xuất cho đồng bào theo hướng khuyến khích phát triển các sản phẩm chủ lực có thế mạnh gắn với chương trình “Mỗi xã một sản phẩm (OCOP)”. Thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển dịch vụ, nhất là các phiên chợ biên giới, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm... Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Ba là: Chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh về cơ chế, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, tránh thất thoát, trục lợi chính sách, gây mất niềm tin trong cán bộ, đảng viên và đồng bào.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền; đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội các cấp; chú trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là ở các thôn, bản, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nơi có nguy cơ không còn chi bộ đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy hơn nữa vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín để dẫn dắt, vận động đồng bào thực hiện tốt các chủ trương, chính sách.

Bốn là: Chủ động, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng chính sách tự do, tín ngưỡng, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đấu tranh hiệu quả hoạt động của các loại tội phạm. Nắm chắc tình hình an ninh biên giới, an ninh vùng đồng bào dân tộc; xây dựng đường biên giới với nước bạn Lào, Trung Quốc hòa bình, hữu nghị, phát triển bền vững.

-------------------------

            (*) Tiêu đề do Tòa soạn đặt.

Bắt 2 đối tượng truy nã đặc biệt nguy hiểm khi đang lẩn trốn tại Lào

Điện Biên TV - Ngày 4/11, Công an tỉnh Điện Biên chủ trì phối hợp với Công an huyện Mường Sỉnh, tỉnh Luông Nậm Thà, nước CHDCND Lào bắt giữ thành công 2 đối tượng có lệnh truy nã đặc biệt nguy hiểm về tội mua bán trái phép chất ma tuý khi đang lẩn trốn tại Lào.

d
Đối tượng Tòng Văn Phanh tại cơ quan Công an.

Hai đối tượng bị bắt giữ khi đang lẩn trốn tại lán nương thuộc huyện Mường Sỉnh, tỉnh Luông Nậm Thà (Lào) là Tòng Văn Phanh (sinh năm 1985) và Lò Văn Hải (sinh năm 1993), cùng trú tại bản Hua Ná, xã Mường Lạn, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên là 2 đối tượng có Lệnh truy nã đặc biệt nguy hiểm của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” từ năm 2022.

d
Đối tượng Lò Văn Hải tại cơ quan Công an.

Hiện Công an tỉnh Điện Biên đã di lý thành công 2 đối tượng về Công an tỉnh Điện Biên để tiếp tục điều tra làm rõ. 

Thành Trung - Văn Hiển/DIENBIENTV.V

Ngừng cung cấp điện đối với các cơ sở chế biến dong riềng chưa đủ điều kiện

Điện Biên TV - Ngày 5/11, UBND thành phố Điện Biên Phủ tổ chức cuộc họp bàn giải pháp quản lý hoạt động chế biến tinh bột dong riềng trên địa bàn.

1
Lãnh đạo thành phố Điện Biên Phủ kết luận cuộc họp.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 12 cơ sở chế biến dong riềng tại các xã Nà Tấu, Nà Nhạn và Mường Phăng, tuy nhiên các cơ sở chưa chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong việc sử dụng đất, quy trình chế biến, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ; không đủ điều kiện được phép hoạt động chế biến dong riềng theo quy định của pháp luật.

Cuộc họp đã tập trung thảo luận về các thủ tục, giấy tờ; thủ tục bảo vệ môi trường; nguồn gốc đất sử dụng làm nhà xưởng, hệ thống thu gom, xử lý nước, bã thải của các cơ sở chế biến dong riềng; thực trạng hoạt động của các cơ sở.

Kết luận cuộc họp, lãnh đạo thành phố Điện Biên Phủ đã chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong quản lý hoạt động chế biến tinh bột dong riềng tại địa phương và đề nghị Điện lực thành phố ngừng cung cấp điện sản xuất kinh doanh cho hoạt động chế biến tinh bột dong riềng đối với các cơ sở chưa đủ điều kiện. Các phòng ban chuyên môn thành phố phối hợp với UBND các xã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.

Trong thời gian tới, UBND thành phố sẽ tổ chức cuộc họp đối thoại trực tiếp đối với các cơ sở chế biến để giải quyết dứt điểm tình trạng trên./.

CTV Thanh Tùng/DIENBIENTV.VN

 

Thanh An đưa khoai lang thành cây đặc sản

ĐBP - Xã Thanh An nằm ở phía Đông Nam huyện Điện Biên, được biết đến với nhiều loại nông sản, trong đó có giống khoai lang ruột trắng, vỏ vàng. Đây là giống khoai lang được trồng khá phổ biến trên cánh đồng Mường Thanh nhưng riêng tại Thanh An lại được đánh giá cao về độ bùi, thơm, bở và được nhiều người trong và ngoài tỉnh ưa chuộng. Vụ đông hằng năm, người dân Thanh An ra đồng, xuống giống “khoai đặc sản Thanh An”.

Sau khi đã hoàn tất việc làm đất, người dân thôn Đồi Cao tập trung xuống giống khoai lang cho kịp thời vụ.

Tuy có giá trị kinh tế nhưng nhiều năm qua, cây khoai được trồng theo kinh nghiệm, diện tích manh mún, nhỏ lẻ nên thu nhập mang lại từ cây khoai Thanh An chưa cao. Mong muốn phát triển cây khoai lang theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường, năm 2020, chính quyền xã Thanh An tuyên truyền, vận động người dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng mô hình phát triển khoai lang theo hướng hàng hóa.

Anh Lương Quý Tuấn, trưởng thôn Đồi Cao, xã Thanh An chia sẻ: Khoai lang là loại cây truyền thống có từ bao đời nay, dễ trồng, đầu tư thấp, chịu hạn tốt. Tuy nhiên, những năm trước, khoai lang được trồng phục vụ chăn nuôi, chưa chú trọng đến kinh tế, chưa coi đây là loại nông sản hàng hóa. Hiện nay, nhu cầu sử dụng ngọn, củ khoai lang tăng do thị hiếu người tiêu dùng đã có sự thay đổi, cây khoai lang đã trở thành hàng hóa, đem lại thu nhập cao cho người dân.

Năm nay, thôn Đồi Cao trồng gần 30ha khoai lang, trong đó có những hộ thuê thêm ruộng mở rộng diện tích trồng khoai. Là một trong những hộ có kinh nghiệm trồng khoai nhiều năm, anh Tuấn cho rằng khoai lang dễ chăm sóc, ít sâu bệnh. Từ lúc xuống giống đến lúc thu hoạch kéo dài hơn 4 tháng. Quá trình chăm sóc chỉ cần bón đủ phân và một lần vun là có thể đợi đến lúc dỡ củ. Giống khoai lang "trong trắng, ngoài vàng" thích hợp với thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây nên tạo ra đặc trưng của "khoai Thanh An". Với năng suất 12 - 14 tấn/ha và giá bán dao động 10.000 - 12.000 đồng/kg, có đợt cao điểm giá khoai lên 15.000 đồng/kg. Mỗi héc ta khoai lang mang lại thu nhập trên 100 triệu đồng, hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần so với các loại cây trồng khác.

Nông dân xã Thanh An phấn khởi khi được mùa khoai lang… và khoai lang sau khi chế biến.

Sự gia tăng diện tích cây vụ đông, đặc biệt cây khoai lang cho thấy xu hướng phát triển tích cực trong cơ cấu cây trồng, giúp đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp của huyện Điện Biên. Để phát triển nông sản địa phương, huyện Điện Biên đã triển khai nhiều cơ chế, chính sách và giải pháp hỗ trợ người dân mở rộng diện tích trồng khoai lang. Theo ông Phạm Văn Kiên, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Điện Biên: Thực hiện dự án hỗ trợ phát triển cây khoai tại xã Thanh An, Trung tâm phân phối phân bón, vôi và thuốc bảo vệ thực vật cho 8 thôn, bản với tổng diện tích gieo trồng trên 14ha (vốn Nhà nước hỗ trợ 70%, nhân dân đóng góp 30%). Công tác tập huấn kỹ thuật canh tác, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, kiểm soát sâu bệnh và bảo quản sau thu hoạch được tổ chức thường xuyên; giúp nông dân áp dụng phương pháp sản xuất hiệu quả, tiết kiệm chi phí.

Hướng tới đưa cây khoai lang trở thành sản phẩm đặc sản tiêu biểu, xã Thanh An đã và đang kết nối với các doanh nghiệp, cộng đồng tích cực quảng bá, giới thiệu đặc sản khoai lang Thanh An. Đồng thời định hướng và quy hoạch vùng trồng khoai lang tập trung; phối hợp cơ quan chuyên môn hướng dẫn nông dân cách thu hoạch, sơ chế, bảo quản đảm bảo sản phẩm sạch khi đưa ra thị trường. Ông Lò Văn Chính, Chủ tịch UBND xã Thanh An cho biết: Đến nay, xã đã quy hoạch hơn 52ha trồng khoai lang. Dù chưa được công nhận là cây trồng chủ lực nhưng hiện cây khoai lang được đánh giá là cây trồng thế mạnh của xã Thanh An bên cạnh chăn nuôi và trồng lúa.

Bài, ảnh: Quang Hùng

 

Khó vạn lần dân liệu cũng xong

ĐBP - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Lời căn dặn của Người đã trở thành bài học quý giúp huyện Tuần Giáo phát huy sức mạnh toàn dân trong triển khai các chương trình, dự án xây dựng nông thôn mới (NTM), đảm bảo quốc phòng - an ninh. Sự chung sức, đồng lòng của nhân dân đã góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mang lại diện mạo mới trên vùng đất cách mạng Tuần Giáo.

Bài 1: Dân làm gốc

Ngoài sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa phương thì sự ủng hộ, đồng lòng của nhân dân được xem là yếu tố then chốt trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án trên địa bàn huyện Tuần Giáo. Để người người thi đua, nhà nhà tham gia các phong trào, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc tuyên truyền, vận động tạo sự đồng thuận, đoàn kết trong nhân dân. Mỗi người dân thực sự đã trở thành chủ thể thúc đẩy các phong trào về xây dựng NTM nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh nói chung.

Cấp ủy, chính quyền xã Quài Tở (huyện Tuần Giáo) tuyên truyền, vận động người dân bản Hới Trong hiến đất làm thao trường huấn luyện.

“Mưa dầm thấm lâu”

Những ngày cuối năm 2024, chúng tôi có dịp trở lại bản Khá, xã Quài Cang (huyện Tuần Giáo). Con đường nối từ bản Phung đến bản Khá dù chỉ dài khoảng 1,5km nhưng trước đây, con đường này là nỗi ám ảnh của người dân địa phương bởi cảnh “nắng bụi, mưa lầy”. Sau nhiều cố gắng, nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và người dân, giờ đây con đường liên bản đã được bê tông hóa khang trang, sạch sẽ. Thành quả đó là công sức tuyên truyền, vận động nhân dân hiến đất làm đường của cán bộ, đảng viên tại địa phương. Trong thời buổi “tấc đất tấc vàng”, không phải ai cũng dễ dàng đồng thuận trao “tấc vàng” để làm đường hay xây dựng các công trình công cộng. Vì lẽ đó, việc vận động người dân hiến đất luôn gặp khó khăn.

Nhớ lại những ngày tháng xuống cơ sở vận động bà con hiến đất làm đường, ông Lò Văn Tương, Phó Chủ tịch UBND xã Quài Cang tâm sự: “Khi đó, tuần nào chúng tôi cũng đến các bản vài lần để thuyết phục người dân. Ban ngày, mọi người đi làm nương, làm ruộng không có nhà thì buổi tối chúng tôi đến làm công tác dân vận. Ngoài ra, chúng tôi còn giao nhiệm vụ cho mỗi hội viên phụ nữ, nông dân, đoàn viên thanh niên… thực hiện tuyên truyền, vận động nhân dân hiến đất. Với phương châm “mưa dầm thấm lâu”, kiên trì vận động, bà con đã hiểu được lợi ích thiết thực từ việc làm đường và ý nghĩa của công cuộc xây dựng NTM và nhất trí hiến đất mở đường giao thông”.

Không chỉ hiến đất mở đường mà người dân bản Hới Trong, xã Quài Tở (huyện Tuần Giáo) còn sẵn dàng hiến hàng nghìn mét vuông đất để làm thao trường huấn luyện. Lúc đầu, nhiều gia đình chưa đồng thuận hiến đất, đòi hỏi bồi thường, cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng vũ trang đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà”, tranh thủ sự giúp sức, đồng lòng từ những người già, uy tín, cán bộ bản để vận động từng hộ dân có đất liền kề hiến đất phục vụ mục đích quốc phòng - an ninh.

Nhờ làm tốt công tác dân vận, nhiều hộ dân bản Phung (xã Quài Cang) đã tự nguyện hiến đất làm đường NTM.

Trung tá Trần Văn Khẩn, Chính trị viên Ban CHQS huyện Tuần Giáo chia sẻ: Ban CHQS đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể đến từng gia đình có đất canh tác ở khu vực thao trường để vận động, thuyết phục người dân hiến đất. Trong quá trình tuyên truyền, cấp ủy, chính quyền địa phương kết hợp với Ban CHQS huyện giải thích cặn kẽ cho bà con về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc làm thao trường với mong muốn nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân. Vẫn là “mưa dầm, thấm lâu”, dần dần bà con dân bản đã hiểu rõ chủ trương và đồng thuận hiến đất làm thao trường. Khi chủ trương đã đúng, lòng dân đã thuận, nhiều người dân xung phong hiến đất. Đến nay, bản Hới Trong đã có gần 20 gia đình đồng ý hiến 7.200m2 đất để làm đường và trên 15.400m2 làm thao trường huấn luyện”.

Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng

Trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng NTM, cấp ủy, chính quyền từ huyện, xã đến thôn bản luôn coi trọng ý kiến người dân, tuân thủ nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng”. Từ đó nhân dân mới tin tưởng chung tay, chung sức phấn đấu, thi đua xây dựng NTM. 

 

Nhiều địa bàn tại huyện Tuần Giáo đã vận động người dân hiến hàng nghìn mét vuông đất và đóng góp ngày công xây dựng kết cấu hạ tầng. Hoàn cảnh gia đình không mấy khá giả song khi chính quyền địa phương có chủ trương mở đường qua diện tích đất của gia đình, anh Lò Văn Soan ở bản Khá (xã Quài Cang) đã tự nguyện hiến 400m2 đất vườn để làm đường, ngoài ra còn hiến 1.000m2 đất xây dựng nhà văn hóa bản.

Để người dân trên địa bàn đồng thuận với chủ trương làm đường giao thông nông thôn, xã Mường Khong luôn lắng nghe, bàn bạc nhằm tháo gỡ khó khăn.

Anh Soan chia sẻ: “Việc hiến đất để mở đường, xây dựng các công trình phục vụ bà con, địa phương, gia đình tôi luôn nhất trí. Thế nhưng, làm việc gì, triển khai như thế nào đều phải bàn bạc với chúng tôi và vướng ở đâu thì giải quyết thỏa đáng ở đó; như vậy mới đảm bảo tính công khai, minh bạch. Không chỉ bám sát dân, tuyên truyền, vận động, mà còn phải bàn bạc thống nhất triển khai và tổ chức thực hiện; qua đó lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của người dân nữa. Khi đã làm được những điều đó rồi thì chúng tôi càng thêm tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền và sẵn sàng góp đất, góp công để xây dựng NTM…”.

Việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng cao vai trò của người dân. Khi ý kiến của dân được các cấp chính quyền lắng nghe, giải quyết dứt điểm đã khơi dậy và phát huy tốt vai trò chủ thể của nhân dân; quyết định sự thành công của chương trình, dự án trên địa bàn huyện Tuần Giáo.

 Bài, ảnh: Phạm Quang

Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất quy định mới về chuyển mạng giữ số

(Chinhphu.vn) - Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Thông tư quy định về việc chuyển mạng viễn thông di động mặt đất giữ nguyên số, thay thế Thông tư số 35/2017/TT-BTTTT ngày 23/11/2017.

Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất quy định mới về chuyển mạng giữ số- Ảnh 1.
 

Thuê bao đăng ký chuyển mạng là thuê bao được kích hoạt dịch vụ thông tin di động mặt đất tại Doanh nghiệp chuyển đi ít nhất 90 ngày trước thời điểm đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng

Số dịch vụ ứng dụng tin nhắn ngắn 1441 được sử dụng để phục vụ cho các nghiệp vụ chuyển mạng

Dự thảo Thông tư nêu rõ: Dịch vụ chuyển mạng được cung cấp trên cơ sở giao kết hợp đồng thương mại giữa doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất và thuê bao di động. 

Dịch vụ chuyển mạng không bao gồm việc tiếp tục duy trì cung cấp các dịch vụ ứng dụng viễn thông mà thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng đang sử dụng tại Doanh nghiệp chuyển đi. Doanh nghiệp chuyển đi phải đảm bảo không phát sinh cước của bất kỳ dịch vụ nào kể từ thời điểm cắt dịch vụ của thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng.

Số dịch vụ ứng dụng tin nhắn ngắn 1441 được sử dụng để phục vụ cho các nghiệp vụ chuyển mạng. Thuê bao di động được miễn phí các loại cước, phí khi gửi/nhận tin nhắn đến/khởi phát từ số 1441.

Dịch vụ thông tin di động mặt đất cung cấp cho thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng theo nguyên tắc Doanh nghiệp chuyển đi cắt dịch vụ sau đó Doanh nghiệp chuyển đến mở dịch vụ.

Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất đối soát chênh lệch số lượng thuê bao chuyển mạng định kỳ theo từng quý kể từ khi chính thức cung cấp dịch vụ chuyển mạng đến thời điểm đối soát.  

Minh bạch hóa điều kiện chuyển mạng 

Một trong những điểm mới của dự thảo là bổ sung quy định cụ thể về điều kiện chuyển mạng.

Dự thảo quy định điều kiện về trạng thái của thuê bao di động tại thời điểm đăng ký dịch vụ chuyển mạng: là thuê bao đang hoạt động cả hai chiều trên mạng của Doanh nghiệp chuyển đi.

Điều kiện về thông tin thuê bao: Thông tin thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng tại Doanh nghiệp chuyển đến chính xác so với thông tin của thuê bao đó tại Doanh nghiệp chuyển đi, bao gồm các thông tin cơ bản như sau:  

Đối với thông tin của thuê bao là cá nhân: số giấy tờ và loại giấy tờ tùy thân, gồm: hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân còn thời hạn sử dụng đối với người có quốc tịch Việt Nam hoặc hộ chiếu còn thời hạn lưu hành tại Việt Nam đối với người có quốc tịch nước ngoài hoặc chứng minh thư Công an, Quân đội đang còn hiệu lực.  

Đối với thông tin của thuê bao là tổ chức: số giấy tờ và loại giấy tờ của giấy chứng nhận pháp nhân, gồm: quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Điều kiện về thời gian sử dụng dịch vụ: 

Thuê bao đăng ký chuyển mạng là thuê bao được kích hoạt dịch vụ thông tin di động mặt đất tại Doanh nghiệp chuyển đi ít nhất 90 ngày trước thời điểm đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng, hoặc;

Thuê bao đăng ký chuyển mạng là thuê bao hòa mạng mới hoặc là thuê bao trúng đấu giá và được kích hoạt dịch vụ thông tin di động mặt đất tại Doanh nghiệp gốc ít nhất 06 tháng trước thời điểm đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng.

Điều kiện về cước dịch vụ thông tin di động mặt đất: Thuê bao trả sau không nợ cước của kỳ thanh toán cước gần nhất trước ngày đăng ký dịch vụ chuyển mạng. Tổng nợ cước nóng của một thuê bao tại thời điểm đăng ký chuyển mạng không lớn hơn 500.000 VND (năm trăm ngàn đồng).

Điều kiện về sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế: Thuê bao trả sau không sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế trong 60 ngày trước thời điểm đăng ký dịch vụ chuyển mạng.

Các điều kiện khác: 

Không vi phạm các hành vi quy định tại Điều 9 Luật Viễn thông hoặc theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Không có khiếu nại, tranh chấp về quyền sử dụng số thuê bao tại Doanh nghiệp chuyển đi.

Không đang đăng ký một (01) giao dịch chuyển mạng khác.

Quy định cụ thể quy trình đăng ký chuyển mạng

Một điểm mới khác của dự thảo là quy định cụ thể quy trình đăng ký chuyển mạng, giấy tờ sử dụng để đăng ký dịch vụ chuyển mạng để triển khai đồng bộ tại tất cả doanh nghiệp, hạn chế tình trạng gây khó dễ cho thuê bao chuyển mạng, từ chối chuyển mạng sai quy định.

Theo dự thảo, thuê bao di động có nhu cầu đăng ký dịch vụ chuyển mạng thực hiện thủ tục đăng ký dịch vụ chuyển mạng bằng một trong các hình thức sau:

1- Trực tiếp tại điểm do chính Doanh nghiệp chuyển đến trực tiếp sở hữu, thiết lập (có địa chỉ xác định hoặc lưu động).

2- Trực tiếp tại các điểm có địa chỉ xác định do doanh nghiệp khác thiết lập, được Doanh nghiệp chuyển đến ký hợp đồng ủy quyền để thực hiện việc đăng ký dịch vụ chuyển mạng. 

3- Trực tuyến thông qua sử dụng phần mềm, ứng dụng do Doanh nghiệp chuyển đến cung cấp. Trường hợp phần mềm, ứng dụng dùng để đăng ký trực tuyến không xác thực được thông tin của thuê bao thì phải đăng ký trực tiếp tại các điểm.  

4 trường hợp từ chối chuyển mạng

Dự thảo cũng nêu rõ, doanh nghiệp chuyển đi chỉ được từ chối cho thuê bao chuyển mạng trong các trường hợp sau đây:

1- Thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng không đáp ứng một trong các điều kiện chuyển mạng theo quy định.

2- Thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng xuất trình giấy tờ để đăng ký không đúng quy định hoặc giấy tờ để đăng ký dịch vụ chuyển mạng được xuất trình không rõ, không bảo đảm việc số hóa giấy tờ được rõ ràng, sắc nét, đầy đủ thông tin hoặc giấy tờ tùy thân có thông tin không trùng khớp sau xác thực hoặc không xác thực được.

3- Nhận được yêu cầu hủy chuyển mạng từ Trung tâm chuyển mạng.

4- Theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

Minh Hiển

Rối ren thị trường cát xây dựng

ĐBP - Từ đầu năm đến nay, giá cát xây dựng trên địa bàn tỉnh liên tục leo thang đã tạo “cơn sốt” trên thị trường vật liệu xây dựng. Thời điểm hiện tại, giá cát tăng cao ở mức kỷ lục từ trước tới nay và chưa có dấu hiệu “hạ nhiệt” đã khiến nhiều người có nhu cầu xây dựng, sửa chữa nhà cửa bức xúc. Trong khi đó, cát xây dựng mỗi nơi bán một giá càng làm cho thị trường cát thêm rối ren, khó lường.

Bài 1: Người xây nhà gặp khó vì giá cát tăng cao

Những công trình thi công dang dở, gặp lúc giá cát xây dựng tăng phi mã, đã đẩy người dân và cả doanh nghiệp vào thế… khóc dở mếu dở, tiến thoái lưỡng nan.

Ngôi nhà của ông Đỗ Tuấn Vũ, thôn Trần Phú, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên đang xây dựng với giá cát 550.000 đồng/mét khối.

“Méo mặt” vì xây nhà

Thời gian qua, người dân trên địa bàn TP. Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên liên tục phản ánh, ca thán về giá vật liệu xây dựng, đặc biệt là sự “leo thang” chóng mặt của giá cát, khiến việc xây dựng, sửa chữa nhà cửa gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình đang triển khai xây dựng nhà cửa phải cân đối, tính toán lại. Thậm chí, một số gia đình hạn chế về điều kiện kinh tế phải thay đổi kế hoạch dựng nhà, đứng trước nguy cơ gián đoạn hoặc tạm dừng, do kinh phí vượt nhiều lần so với dự toán ban đầu.

Lập kế hoạch xây nhà từ giữa năm 2023, song đến tháng 6/2024 gia đình ông Trần Văn Khu, phường Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ mới chính thức khởi công. Ông Khu cho biết theo dự tính ban đầu, ngôi nhà hoàn thiện sẽ cần khoảng 150m3 cát, với giá khảo sát thời điểm đó là 200 nghìn đồng/mét khối. Trên cơ sở này, ông đã có tính toán, cân đối và chuẩn bị đảm bảo về kinh phí để sẵn sàng dựng nhà.

“Tháng 6 khi bắt đầu thi công, cát chở về tận chân công trình tăng nhẹ lên 250 nghìn đồng/mét khối. Thế nhưng đến cuối tháng 10 vừa qua đơn vị bán đã báo giá là 500 nghìn đồng/mét khối. Ngay đầu tháng 11 này tôi lấy 4 xe (tổng 28m3) lại là 520 nghìn đồng/mét khối. Thấy giá tăng nhanh quá tôi có thắc mắc, thì người bán trả lời là cát mua tại bãi giờ đã 400 nghìn đồng/mét khối rồi. May mà nhà tôi đang vào giai đoạn hoàn thiện, từ nay đến khi xong dự tính còn cần khoảng 20m3 nữa nên vẫn cố gắng xoay xở, chứ nếu không thì hết sức khó khăn” - ông Khu than thở.

Giá cát tăng phi mã khiến nhiều gia đình đang xây nhà gặp khó khăn.

Kế bên công trình nhà ông Khu là ngôi nhà của gia đình chị gái ông - bà Trần Thị Thuận, cũng vừa hoàn thiện phần móng. Gia đình đã ký hợp đồng với đơn vị thi công song bà Thuận vẫn không khỏi lo lắng, đứng ngồi không yên trước “cơn sốt” giá cát thời gian qua. “Qua vài ngày lại nghe giá cát một khác. Giờ tăng lên gấp đôi so với đầu năm rồi, mà chưa biết tới đây có tiếp tục tăng nữa không vì chưa thấy có dấu hiệu dừng. Cứ theo đà này thì người làm nhà như chúng tôi sẽ rất khó khăn” - bà Thuận bày tỏ.

Éo le hơn là tình cảnh gia đình anh Lò Mạnh Quân, xã Thanh Yên (huyện Điện Biên). Kinh tế khó khăn, sau nhiều năm đi làm thuê, vợ chồng anh mới tích cóp được một khoản nhỏ, cộng với tiền vay mượn từ người thân để quyết định dựng ngôi nhà cấp 4, làm nơi che mưa che nắng. Thế nhưng, công trình thi công cũng là thời điểm giá cát liên tục biến động, khiến đôi vợ chồng trẻ chỉ biết than trời.

“Khi làm nhà, tôi tính toán giá cát tầm 200 - 250 nghìn đồng/mét khối, giờ tăng gấp đôi, nên phát sinh kinh phí quá lớn, không thể theo kịp. Hiện nay nhà đã xây dựng cơ bản xong phần tường, chưa đổ mái, nhưng với tình hình này thì nguy cơ tôi phải tạm dừng thi công, chờ thời gian nữa xem cát có giảm giá không mới tính tiếp được” -  anh Quân cho biết.

 

 

Doanh nghiệp cũng lao đao

Nhờ đã ký hợp đồng hầu hết các hạng mục từ lúc bắt đầu khởi công xây nhà nên nhiều gia đình may mắn khi không bị tác động bởi giá cát thời gian qua. Song đây lại là “cú đánh chí mạng” khiến nhiều nhà thầu, doanh nghiệp lao đao khi đã ký kết hợp đồng theo đơn giá vật liệu xây dựng thời điểm đó. Giá cát tăng kéo theo giá vật liệu liên quan đến cát, như: Bê tông tươi, ống bi, cọc… tăng theo. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, nhất là những doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn. Không ít nhà thầu rơi vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, khi tiếp tục thi công thì đối diện tình cảnh thua lỗ mà nếu không làm lại bị chậm tiến độ.

Đối với hợp đồng trọn gói, đơn giá đều cố định, khi thị trường nguyên vật liệu biến động, nhất là gia tăng như giá cát thời gian này thì doanh nghiệp đối mặt nguy cơ thua lỗ. Ngay cả với hợp đồng được điều chỉnh giá thì cũng khó đảm bảo. Bởi khi thanh toán, chủ đầu tư chỉ căn cứ vào thông báo giá cùng thời điểm của đơn vị chức năng, việc điều chỉnh cũng dựa trên khảo sát, xem xét quyết định của những cơ quan này.

Không chỉ người dân, hiện nay một số doanh nghiệp cũng gặp khó và chỉ hoạt động cầm chừng khi giá cát liên tục tăng.

Chia sẻ về những khó khăn này, chị Tạ Thị Ngà, kế toán Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Mường Thanh cho hay: Cơ bản các công trình mà đơn vị thi công được áp dụng mức giá nguyên liệu cát từ 200 - 300 nghìn đồng/mét khối. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay doanh nghiệp đang phải mua cát với giá thấp nhất là 400 nghìn đồng/mét khối; thậm chí cát trát (xoa) gần 700 nghìn đồng/mét khối. Sự gia tăng đột biến khiến một số công trình bị ảnh hưởng, gián đoạn, buộc doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng.

“Đồng nghĩa với đó là chúng tôi phải chịu áp lực về tiến độ, đối diện nguy cơ không thể hoàn thành theo kế hoạch đặt ra. Nhưng nếu tiếp tục nhập nguyên liệu và làm thì chắc chắn thua lỗ, vì không thể quyết toán được khoản tiền phát sinh do tình trạng tăng giá này. Có thể một số đơn vị vẫn cầm cự được, thế nhưng cũng chỉ thực hiện ở công trình nhỏ, số lượng ít và trong thời gian ngắn, chứ về lâu dài thì không thể được” - chị Ngà cho biết.

Thực tế trên khiến không ít người đặt câu hỏi, nguyên nhân nào dẫn đến “cơn sốt” giá cát thời gian qua? Và cần phải có giải pháp gì để tránh được những hệ lụy về lâu dài cho cả người dân và doanh nghiệp? 

Bài 2: Bất nhất giá công bố và giá thị trường

Hà Linh

Chủ động chống hạn cho cây trồng vụ đông

ĐBP - Hiện nay, thời tiết diễn biến khá phức tạp, mưa rất ít, trời nắng kéo dài, hanh khô ảnh hưởng sản xuất cây trồng vụ đông nhất là khu vực lòng chảo Điện Biên. Một số diện tích cây trồng vụ đông vùng lòng chảo rơi vào tình trạng thiếu nước, ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển, sinh trưởng.

Cách chống hạn được người dân ưu tiên hàng đầu là sử dụng bơm dã chiến bơm nước từ dưới mương lên để tưới cây trồng.

Vụ đông năm nay, gia đình bà Quàng Thị Muôn, bản Chiềng An, xã Thanh An (huyện Điện Biên) trồng gần 500m2 khoai lang. Thiếu nước tưới, diện tích khoai lang của gia đình chậm phát triển và có dấu hiệu khô héo thân, không bén rễ. Trước nguy cơ diện tích khoai lang đã xuống giống có thể mất trắng, gia đình bà Muôn đã thuê máy bơm nước từ kênh tả của Đại thủy nông Nậm Rốm lên tưới cho ruộng khoai đang nứt nẻ vì nắng hạn. Mỗi lần tưới chi phí thuê máy bơm hết 150 nghìn đồng.

Không chỉ gia đình bà Muôn, nhiều hộ khác thuộc các xã vùng lòng chảo đang chịu ảnh hưởng từ thời tiết khô hanh, thiếu nước tưới, khiến cây trồng chậm phát triển và có nguy cơ phải gieo trồng lại. Chị Lò Thị Thủy, bản Pa Pháy, xã Thanh Yên đứng ngồi không yên bởi 3.000m2 trồng củ đậu có nguy cơ mất trắng vì thiếu nước. Theo chia sẻ của chị Thủy, gia đình đã đầu tư gần 8 triệu đồng tiền giống, phân bón, cải tạo ruộng... Nếu thời tiết thuận lợi, sau khoảng 4 tháng sẽ được thu hoạch củ đậu, với mỗi 1.000m2 thu được từ 2,5 - 3 tấn củ, có giá dao động từ 5.000 - 7.000 đồng/kg. Tuy nhiên, năm nay, thời tiết nắng khô kéo dài, ruộng hạn trong nhiều tuần qua, khiến cây không thể phát triển. Khắc phục khô hạn, mấy ngày nay, gia đình cử người trực từ nửa đêm tại tuyến mương nổi để dẫn nước về ruộng và phải dùng thêm máy bơm nước từ mương lên tưới mới đủ. Do ruộng cách mương tương đối xa nên gia đình gặp khó khăn trong việc dẫn nước về ruộng. “Để cây phục hồi, tôi phải liên tục bơm nước trong vài ngày để đất ngấm đủ nước. Để cây sinh trưởng tốt, tạo củ to thì gia đình cũng bón thêm phân để tăng dinh dưỡng” - chị Thủy chia sẻ thêm.

Đã có những luống khoai bị mất hoàn toàn, do hạn hán kéo dài, thiếu nước tưới.

Vụ đông năm nay, huyện Điện Biên gieo trồng trên 860ha rau màu, trong đó tập trung những loại cây ngắn ngày, đem lại hiệu quả kinh tế cao và chịu hạn tốt như ngô, khoai lang, lạc... Ngoài sự chủ động của người dân trong việc chống hạn cho cây trồng, chính quyền các xã vùng lòng chảo tăng cường phối hợp với Công ty TNHH Quản lý thủy nông Điện Biên điều tiết nước.

Ông Trần Quốc Duyệt, Trưởng phòng Kế hoạch - Kỹ thuật, Công ty TNHH Quản lý thủy nông Điện Biên cho biết: Theo kiến nghị của các xã, Công ty đã xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc điều tiết nước thuộc hai kênh của Đại thủy nông Nậm Rốm. Hàng tuần, Công ty xả nước trong hai ngày thứ 7 và chủ nhật, từ thứ 2 đến thứ 6 dừng cấp nước để công nhân nạo vét kênh mương. Theo ông Duyệt, việc xả nước đã có lịch cụ thể, phía người dân cũng cần sử dụng nguồn nước có hiệu quả, tình trạng khô, hạn dự báo sẽ tiếp tục kéo dài nên việc sử dụng nước tiết kiệm là rất cần thiết.

Nông dân xã Thanh Yên (huyện Điện Biên) tích cực chống hạn cho cây củ đậu.

Chủ động trong công tác chỉ đạo, bà con nông dân tập trung chống hạn cho cây trồng, nên diện tích hoa màu bị hạn của huyện Điện Biên đang dần phát triển. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của cơ quan chuyên môn, thời tiết diễn biến khá phức tạp, khô hạn xảy ra trên diện rộng, người dân cần chủ động phòng chống hạn cho cây trồng. Thời gian tới, cơ quan chuyên môn tiếp tục phối hợp UBND các xã tổ chức kiểm tra công tác điều tiết nước, hệ thống hồ, đập, công trình thủy lợi, bố trí các điều kiện để đảm bảo có thể huy động máy bơm dã chiến bơm tưới nước khi cần thiết, nhằm giảm thiểu thiệt hại về năng suất, sản lượng cây trồng do hạn hán gây ra.

Bài, ảnh: Quang Hùng

 

Giúp sản phẩm từ thôn bản vươn ra thị trường

ĐBP - Để nông sản trở thành sản phẩm hàng hóa, vươn ra thị trường là việc làm không hề dễ đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. “Việc khó” này đang được tỉnh Điện Biên nỗ lực triển khai thông qua việc xây dựng, mở rộng các mô hình hợp tác xã (HTX) kiểu mới.

Thành viên HTX mây tre đan Nà Tấu giới thiệu sản phẩm đến khách hàng.

“Cầu nối” HTX

Ông Quàng Văn Phích, bản Nà Tấu 1, xã Nà Tấu (TP. Ðiện Biên Phủ) có gần 50 năm kinh nghiệm trong nghề truyền thống mây tre đan. Với đôi bàn tay khéo léo, ông đã tạo ra những sản phẩm từ mây, tre vô cùng tinh xảo, thiết thực với đời sống, từ những chiếc rổ, rá đơn giản đến các bộ ghế, mâm cơm cầu kỳ.

Ông Phích chia sẻ: “Nghề đan mây tre đã gắn bó với tôi từ lúc nhỏ. Dù cuộc sống có nhiều đổi thay, nhưng nghề này vẫn được gia đình tôi gìn giữ. Trước đây, rất ít người biết đến nên chủ yếu tôi chỉ làm phục vụ nhu cầu của gia đình. Thế nhưng, từ khi thành lập HTX, nhiều cơ hội để quảng bá nên sản phẩm của tôi không chỉ được người dân trong tỉnh mà nhiều du khách thập phương biết đến, đặt mua”.

Hiện nay, các sản phẩm của gia đình ông Phích được bán với giá trung bình từ 10 nghìn - 400 nghìn đồng, tùy loại. Một số sản phẩm đặc biệt cao cấp như mâm cơm bằng mây, được bán với giá 1,5 triệu đồng. Với mức độ duy trì sản xuất đều đặn như gia đình ông Phích, bình quân thu nhập đạt khoảng hơn 3 triệu đồng/người/tháng.

Thành viên HTX mây tre đan Nà Tấu chuẩn bị nguyên liệu sản xuất ghế mây.

Ông Lò Văn Cương, Giám đốc HTX mây tre đan Nà Tấu cho biết: Hiện nay, HTX có 20 thành viên, cơ bản cuộc sống các gia đình thành viên đều được cải thiện đáng kể nhờ duy trì nghề truyền thống này. Tuy nhiên, thời gian gần đây trước những thay đổi của xã hội, nghề mây tre đan phải đối mặt với nhiều khó khăn. Nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm và đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ. Việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ ổn định bị hạn chế, đặc biệt nguồn vốn đầu tư hạn hẹp.

“Nhận thức được những hạn chế này, HTX đã chủ động tìm kiếm nhiều giải pháp. Trong đó có việc tham gia các hội chợ, triển lãm giúp sản phẩm mây tre đan Nà Tấu đến gần hơn với người tiêu dùng. Ðồng thời, tiếp tục tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã để đáp ứng nhu cầu thị trường” - ông Cương cho hay.

Tại huyện biên giới Nậm Pồ, HTX đang dần thu hút được sự quan tâm của người dân bởi những lợi ích và hiệu quả mà mô hình này mang lại. Ðược sự tư vấn, hỗ trợ của chính quyền địa phương, những người nông dân trước đây chỉ quen với lối sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, nay đã biết liên kết với nhau, đầu tư máy móc, thiết bị chế biến và tạo dựng chỗ đứng cho các sản phẩm từ thôn, bản. Ðặc biệt, nhờ hình thức liên kết cùng sản xuất thông qua mô hình HTX đã giúp nông dân vượt qua khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ.

Thành viên HTX Tinh dầu sả Vàng Đán thu hoạch nguyên liệu.

HTX Tinh dầu sả Vàng Ðán (xã Vàng Ðán) là một ví dụ. Năm 2018, một số hộ dân địa phương đã đưa cây sả về trồng và manh nha mô hình chưng cất tinh dầu để bán ra thị trường. Thấy được triển vọng, tháng 8/2022, chính quyền địa phương đã vận động, hướng dẫn bà con liên kết thành lập HTX, với 17 hộ tham gia. Ngay năm đầu tiên, HTX bán được khoảng 3.700 lít tinh dầu thành phẩm. Các năm sau, HTX duy trì sản xuất, với thu nhập bình quân mỗi hộ từ 50 - 100 triệu đồng/năm, tùy giá thị trường.

Ông Tráng A Chu, Giám đốc HTX Tinh dầu sả Vàng Ðán cho biết: “Từ khi liên kết thành lập HTX, chúng tôi đầu tư hệ thống lò chưng cất quy mô hơn, các khâu trong tổ chức quản lý sản xuất của các thành viên tốt hơn. Từ đó, giúp người dân giảm chi phí đầu vào, khắc phục các hạn chế và có đầu ra ổn định. Sau nhiều nỗ lực, đến nay HTX đã duy trì vùng nguyên liệu khoảng 10ha. Ðặc biệt, HTX kết nối được đầu ra ổn định với 2 cơ sở thu mua tại huyện Mường Nhé và tại Lào Cai, mức giá duy trì từ 350 - 400 nghìn đồng/kg nên bà con yên tâm sản xuất”.

Đến nay, HTX Tinh dầu sả Vàng Đán duy trì vùng nguyên liệu khoảng 10ha phục vụ sản xuất.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động HTX

Hiện nay, toàn tỉnh có gần 320 HTX, trong đó trên 200 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, với mức thu nhập bình quân đạt 56 triệu đồng/người/năm. Theo đánh giá từ cơ quan chức năng, những năm gần đây, hoạt động của HTX trên địa bàn tỉnh đã có sự phát triển mạnh mẽ về quy mô, ở mỗi lĩnh vực đều có những thành tựu nhất định.

“Tại các vùng nông thôn, HTX có vai trò rất lớn trong việc giải quyết việc làm, tăng tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên cho các địa phương. Các HTX cũng đã phát huy được hiệu quả hoạt động gắn với sản phẩm đặc trưng của địa phương. Ðồng thời thay đổi tư duy, cách làm của bà con, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; tăng cường liên doanh, liên kết để mang lại hiệu quả kinh tế cho thành viên. Từ đó góp phần thay đổi đời sống của người dân tại nhiều xã, bản” - ông Phí Văn Dương, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh nhận định.

Người dân xã Lay Nưa, thị xã Mường Lay giới thiệu sản phẩm đặc sản địa phương tại sự kiện Khai mạc mùa nước nổi trên Sông Đà năm 2024.

Ðể các HTX vận hành hiệu quả, Liên minh HTX tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền để các thành viên HTX hiểu được lợi ích của kinh tế tập thể. Nhiều thành viên đã được tham quan mô hình HTX điển hình tiên tiến để học hỏi, nâng cao nhận thức, kinh nghiệm. Các HTX mới được thành lập được định hướng gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới và Chương trình mỗi xã một sản phẩm; chú trọng phát triển tại địa bàn chưa có HTX, địa bàn vùng sâu, vùng xa.

Ông Dương cũng cho biết, thời gian tới Liên minh HTX tỉnh sẽ phối hợp xây dựng Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX, triển khai Ðề án xây dựng HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị theo nghị quyết của Ban chấp hành Liên minh HTX Việt Nam; tư vấn, hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác tiếp cận, áp dụng chuyển đổi số vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hiện nay, nhiều HTX của tỉnh đã ứng dụng chuyển đổi số hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh; chủ động liên kết với nông dân sản xuất và tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hà Linh

 

Giá trâu, bò tiếp tục giảm

Điện Biên TV - Thời gian qua, giá trâu, bò hơi tiếp tục giảm, chưa có dấu hiệu khởi sắc, trong khi chi phí thức ăn chăn nuôi tăng, đầu ra sản phẩm không ổn định... khiến người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn.

1

Toàn tỉnh có tổng đàn trâu, bò khoảng 250 nghìn con, hiện một con bò tùy trọng lượng có giá bán từ 15 đến 20 triệu đồng giảm khoảng 2-3 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước. Tương tự, với thịt trâu hơi, so với cùng kỳ năm trước, giá cũng đã giảm từ 90.000 đồng/kg xuống còn khoảng 70.000 - 75.000 đồng/kg.

Nguyên nhân chính là do thị trường Trung Quốc một thời gian dài gần như không nhập khẩu. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ trong nước và trong tỉnh chậm khiến việc tiêu thụ trâu bò càng trở nên khó khăn.

Trước thực trạng trên, cơ quan chức năng khuyến cáo người chăn nuôi bò cần tiếp tục theo dõi thị trường để có kế hoạch chăn nuôi phù hợp, thực hiện các biện pháp để ổn định sản xuất, tiết kiệm chi phí chăn nuôi, không giảm đàn ồ ạt khiến nguồn cung bị đứt gãy.

Bên cạnh đó, các địa phương cần thành lập các tổ hợp tác, liên kết trong sản xuất; khuyến khích, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, thực hiện liên kết với người dân nhằm tháo gỡ khó khăn trong tiêu thụ, giúp người dân phát triển chăn nuôi một cách bền vững./. 

Thu Nga - Bùi Tiến/DIENBIENTV.VN

  • 1
  • ...
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • ...
  • 33

 

HỆ THỐNG PHẢN ÁNH THÔNG TIN TỈNH ĐIỆN BIÊN      

 

Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên

Địa chỉ: Tổ 04, phường Nam Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Chịu trách nhiệm chính: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên

Điện thoại: 0251.3835.666

Email: paht@dienbien.gov

Chung nhan Tin Nhiem Mang ỨNG DỤNG DI ĐỘNG

TẢI ỨNG DỤNG NGAY

Android IOS

Mô tả hình ảnh 1 Mô tả hình ảnh 2 Mô tả hình ảnh 3

 

 

#

#

#

#

Gửi lại mã xác thực

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập

Vui lòng nhập mã xác thực chúng tôi đã gửi vào số điện thoại của bạn

Vui lòng nhập mã xác thực

Nếu bạn đăng ký thông tin sai! Vui lòng click vào đây để đăng ký lại thông tin tài khoản!
OTP sẽ hết hạn sau

Cập nhật thông tin

Đăng ký tài khoản

Vui lòng chọn đối tượng đăng ký
Vui lòng nhập họ tên
Vui lòng nhập CMND/CCCD
Vui lòng nhập số điện thoại/ Số điện thoại không đúng
Vui lòng nhập mã số thuế
Vui lòng chọn lĩnh vực
Vui lòng chọn loại văn bản
Vui lòng nhập mật khẩu
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập xác nhận mật khẩu/ Xác nhận mật khẩu không đúng
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt

Đăng nhập

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập
Vui lòng nhập mật khẩu
Quên mật khẩu
Nếu tài khoản của bạn chưa kích hoạt? Click vào đây để gửi lại mã xác nhận!