Tìm kiếm en
  • Phản ánh hiện trường en
  • Chuyên mục en
    • Chính trị - Kinh tế
      • Kinh tế - Thị trường
      • Chính trị - Kinh tế
    • Văn hóa - Xã hội
      • Văn hóa - Xã Hội
      • Thời tiết - Thiên tai
      • Văn hóa, Du lịch
      • Chuyển đổi số
    • An ninh - Quốc phòng
      • Trật tự đô thị
      • Vi phạm giao thông
      • Vi phạm pháp luật
      • An ninh - Quốc phòng
    • Cơ sở hạ tầng
      • Cơ sở hạ tầng
      • Hạ tầng điện, viễn thông
      • Trật tự xây dựng
      • Kiểm tra - Giám sát
    • Y tế - Giáo dục
      • Vệ sinh an toàn thực phẩm
      • Thông tin dịch bệnh
      • Giáo dục - Y tế
      • Y tế
    • Môi trường
      • Vệ sinh môi trường
    • Thông tin
      • Thông tin
    • Khác
      • Lĩnh vực khác
      • Thống kê
  • Giới thiệu en
  • Hướn dẫn en
  • Bản đồ en
  • IOS Android
  • Đăng nhập en
  • Đăng ký en
IOS Android
  1. Trang chủ
  2. Tin mới en

Kinh tế - Thị trường

Kinh tế - Thị trường

Giao thông đi trước mở đường

ĐBP - Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh Ðiện Biên lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2020 - 2025) xác định phát triển kết cấu hạ tầng là một trong ba khâu đột phá chiến lược, trong đó phát triển kết cấu hạ tầng giao thông phải “đi trước mở đường” theo hướng đồng bộ, hiện đại và hiệu quả tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Bám sát các chủ trương, chỉ đạo của tỉnh, ngành Giao thông vận tải đã tập trung huy động các nguồn lực, ưu tiên đầu tư, nâng cấp hạ tầng giao thông.

Ðường liên thôn Kể Cải - Từ Ngài 2 - Từ Ngài 1 - Háng Trở (xã Mường Báng, huyện Tủa Chùa) được nâng cấp tạo thuận lợi cho người dân lưu thông. Ảnh: Quốc Huy

Từ nguồn vốn ngân sách và huy động sự đóng góp của người dân, năm 2022 tuyến đường từ UBND xã Nà Sáy vào trung tâm xã Mường Khoong (huyện Tuần Giáo) được đầu tư bê tông hóa, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo. Bà Lò Thị Anh, người dân xã Mường Khoong chia sẻ: “Trước đây khi chưa có đường bê tông, dân bản gặp nhiều khó khăn trong bán nông sản. Khi tuyến đường được hoàn thành, vào mùa thu hoạch thương lái đến tận nơi thu mua; người dân đi lại thuận tiện hơn nhiều”.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay nhiều tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện được nâng cấp, sửa chữa và đầu tư xây dựng mới. Hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh hiện nay có tổng chiều dài hơn 9.605km. Trong đó hệ thống giao thông liên xã, giao thông nông thôn được các cấp chính quyền quan tâm đầu tư. Ðến nay, toàn tỉnh có hơn 2.848km đường xã, gần 4.000km đường giao thông nông thôn; 124/129 xã có đường ô tô đến trung tâm xã đi được quanh năm.

Trong nửa nhiệm kỳ qua, ngành Giao thông vận tải đã tham mưu triển khai đồng bộ các giải pháp để định hướng, quy hoạch và hoàn thiện hạ tầng giao thông. Bên cạnh hệ thống quốc lộ, Sở Giao thông vận tải tham mưu quy hoạch hệ thống đường giao thông tỉnh đến năm 2030, quy hoạch hình thành 26 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 1.128,2km. Trong đó, kéo dài 4 tuyến đường tỉnh, chuyển 2 tuyến đường tỉnh (ÐT145, ÐT.150) thành quốc lộ 12D và quy hoạch bổ sung 8 tuyến đường tỉnh mới, tăng chiều dài các tuyến đường tỉnh trên địa bàn. Nâng cấp, xây dựng mới các tuyến đường tỉnh cơ bản đạt quy mô cấp IV - V miền núi, như: Ðường tỉnh 140B có chiều dài 9,5km từ Ðèo Gió (Tủa Chùa) - Vàng Chua -  Km446 quốc lộ 6 (Mường Chà), định hướng nâng cấp toàn tuyến đạt tiêu chuẩn cấp V miền núi. Ðồng thời, bổ sung các tuyến đường tỉnh đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh: Quy hoạch tuyến Ðiện Biên - Tuần Giáo - Than Uyên kết nối với cao tốc Bảo Hà - Lai Châu; quy hoạch bổ sung tuyến đường tỉnh kết nối quốc lộ 12 (địa phận huyện Mường Chà) với quốc lộ 279 (địa phận huyện Mường Ảng). Nâng cấp, mở rộng, bê tông hóa hoặc nhựa hóa 100% hệ thống đường xã; đảm bảo các xã có đường giao thông đi lại thuận tiện trong 4 mùa. Nâng cấp các tuyến đường trục thôn xóm đạt tỷ lệ cứng hóa khoảng 90%, gắn liền với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Mặc dù hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh đã có bước phát triển tích cực nhưng xét tổng thể vẫn còn nhiều hạn chế. Ðến nay, còn 5/129 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã đi được quanh năm; tỷ lệ đường giao thông chưa được bê tông hóa, nhựa hóa còn cao; một số tuyến đường đầu tư chưa đảm bảo quy mô theo quy hoạch, mặt đường hẹp; khả năng kết nối và liên kết vùng còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ðặc biệt, chỉ tiêu Nghị quyết Ðại hội đề ra 100% xã đến năm 2025 có đường ô tô đến trung tâm xã thuận lợi quanh năm dự kiến chỉ đạt 98%; chỉ tiêu tỷ lệ đường giao thông cấp xã được cứng hóa chưa đạt...

Ðể hoàn thành mục tiêu Nghị quyết, Sở Giao thông vận tải đề nghị UBND tỉnh nghiên cứu, bổ sung ưu tiên vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng kỹ thuật quan trọng, mang tính kết nối vùng, liên vùng và kết nối các vùng kinh tế, giải quyết các nút thắt của vùng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Huy động tối đa mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về vốn, tranh thủ nguồn lực từ trung ương, từ các nhà đầu tư, các thành phần khác để phát triển hạ tầng giao thông. Tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương quan tâm đầu tư một số dự án giao thông trọng điểm như: Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp quốc lộ 4H đoạn qua tỉnh Ðiện Biên (bao gồm cả nhánh ra lối mở A Pa Chải); quốc lộ 279 đoạn Ðiện Biên - Tây Trang (bao gồm đoạn tránh TP. Ðiện Biên Phủ); dự án cải tạo, nâng cấp đường tỉnh 146 (đoạn Xa Dung - Na Son - thị trấn Ðiện Biên Ðông).

Quốc Huy

 

Rốt ráo cho mục tiêu tăng trưởng

ĐBP - Thông tin có được, tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP của tỉnh 6 tháng đầu năm là 7,06%. So với khu vực và cả nước, tốc độ tăng trưởng như vậy là khá cao. Tuy nhiên, so với kế hoạch thì chưa đạt mục tiêu đề ra (thấp hơn 2,63 điểm % so với kế hoạch đề ra là 9,69%). Chỉ có 8 ngành đạt và vượt mức tăng trưởng theo kế hoạch, 13 ngành chưa đạt mục tiêu kế hoạch tăng trưởng đầu năm.

Tính chung 6 tháng cũng như quý I/2023, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh đều không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra ban đầu, nhất là chỉ tiêu thu ngân sách địa phương đạt rất thấp (chỉ đạt 28,75% dự toán HĐND tỉnh giao). Điều này kéo theo nhiều hệ lụy. Tỉnh sẽ thiếu hụt nguồn ngân sách để cân đối đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm, các chính sách giáo dục, y tế, an sinh xã hội cũng như đảm bảo quốc phòng, an ninh…

Nguyên nhân có nhiều, nhưng một trong những lý do chính là tình hình thế giới, khu vực tiếp tục biến động phức tạp. Ở trong nước, kinh tê vĩ mô suy giảm; thiên tai, biến đổi khí hậu, tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhà đầu tư bất ổn; giá cả nguyên vật liệu xây dựng tăng cao; lãi suất ngân hàng còn cao… đã tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế cả nước nói chung, tỉnh ta nói riêng.

Các chương trình mục tiêu quốc gia triển khai, ghi vốn chậm; thủ tục, hồ sơ về đất đai, giải phóng mặt bằng nhiều dự án vướng mắc; một số dự án đầu tư chậm triển khai dẫn đến nguồn đầu tư công “khê” vốn.

Trước bối cảnh đó, lãnh đạo tỉnh đã có nhiều cuộc họp bàn các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một trong những quyết định quan trọng là tỉnh không điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng mà vẫn giữ mức trên 10%. Tuỳ tình hình cụ thể để có chỉ đạo sâu sát, kịp thời cho từng tháng, quý.

Trên cơ sở nhận định, dự báo tình hình, để đạt mức tăng trưởng kinh tế GRDP trên 10% (cụ thể 10,2%) thì tăng trưởng kinh tế quý III phải đạt 11,68% và quý IV đạt 13,11%. Đây là thách thức không nhỏ. Vì rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của 2 quý đầu năm đều không đạt kế hoạch đề ra ngay từ kịch bản ban đầu. Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm phải “gánh” thêm cho cả 6 tháng đầu năm.

Căn cứ thực tế, theo đánh giá của bộ phận chuyên môn, nếu chúng ta linh hoạt, chủ động và quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, cùng chung tay thực hiện, thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế GRDP theo kịch bản sẽ đạt được.

Đó là, chúng ta giữ nguyên tốc độ tăng trưởng khu vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản; tăng tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp, xây dựng để bù đắp cho phần dự báo giảm tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ so với kịch bản đầu năm. Hoặc trên cơ sở kết quả thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm, chúng ta thực hiện điều chỉnh tăng tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp, xây dựng và giảm tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ. Khu vực dịch vụ mục tiêu tăng trưởng 6 tháng đầu năm là 11,44%, nhưng chỉ đạt 5,72% (giảm 5,72 điểm %). Do việc tạm dừng hoạt động của Cảng hàng không Điện Biên trong thời gian xây dựng mở rộng đã ảnh hưởng lớn đến dịch vụ vận tải, du lịch của khu vực này.

Ngoài điều chỉnh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo từng quý, chia theo khu vực, nhóm ngành. Cùng với đó là đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Cụ thể, động lực, nhân tố tăng trưởng 6 tháng cuối năm sẽ đến nhiều từ lĩnh vực xây dựng. Do các dự án đầu tư công, dự án phát triển đô thị, các dự án đấu giá quyền sử dụng đất đã được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500; các dự án ở lĩnh vực xây dựng, công nghiệp sản xuất VLXD, dự án phát triển thuỷ điện, sản xuất phân phối điện; các dự án đầu tư phát triển du lịch, thương mại và các dự án trồng mắc ca, trồng rừng, dược liệu, cây ăn quả và các dự án sản xuất nông - lâm nghiệp kết hợp được chấp thuận chủ trương đầu tư trên địa bàn tỉnh…

Tiềm năng, thế mạnh, cơ hội cho mục tiêu tăng trưởng GRDP đã rõ. Vấn đề còn lại là chúng ta cần tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, riết róng, sự chủ động vào cuộc nhịp nhàng vì mục tiêu chung của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là vai trò người đứng đầu các bộ phận, sở, ngành, huyện thị… Đấy sẽ là động lực, là “chiếc búa phá băng”, mở ra mục tiêu tăng trưởng GRDP mạnh mẽ cho những tháng cuối năm.

Tùng Lĩnh

 

Mùa dứa mật ở Pu Lau

ĐBP - Pu Lau là bản dân tộc Mông thuộc xã Mường Nhà (huyện Ðiện Biên). Trước kia Pu Lau là bản khó khăn, nghèo đói nhất xã. Những năm gần đây, nhờ sự chịu thương chịu khó cũng như tích cực phát triển cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, Pu Lau dần chuyển mình thành bản kiểu mẫu trong phát triển kinh tế.

Người dân bản Pu Lau thu hoạch dứa.

Pu Lau cách trung tâm xã Mường Nhà gần 15km, giao thông khá thuận lợi cho đi lại, buôn bán. Nhiều năm trở lại đây, khoảng tháng 6, tháng 7, hình ảnh bà con Pu Lau gùi, chở từng sọt dứa lớn từ nương xuống lán tạm, các tiểu thương đứng đợi để lấy hàng, chọn dứa không còn xa lạ. Sự tấp nập, nhộn nhịp của người bán người mua, niềm vui của bà con nặng trĩu trên từng gùi đầy ắp dứa, là sự khẳng định đây là cây trồng chủ lực phát triển kinh tế, đẩy lùi đói nghèo nơi bản vùng cao biên giới này.

Dứa Pu Lau là giống dứa mật, có xuất xứ từ Lào, được ưa chuộng bởi vị ngọt, mọng nước và rất to. Trung bình mỗi quả dứa mật nặng từ 1,5-3kg. Trước kia dứa chỉ được trồng nhỏ lẻ để phục vụ nhu cầu gia đình; do hợp khí hậu, thổ nhưỡng nên có chất lượng, năng suất cao, dần dần được bà con dân bản nhân rộng. Từ vài chục, vài trăm mét vuông ban đầu, đến nay diện tích dứa của bản đã đạt gần 60ha và là nơi có diện tích trồng dứa lớn nhất xã. Ða số người dân trong bản đều trồng dứa, từ diện tích nương lúa, nương sắn kém hiệu quả ban đầu dần được thay thế bằng những hàng dứa đều tăm tắp cho quả ngọt và nguồn thu nhập ổn định mỗi năm.

Ông Vàng A Tếnh, Bí thư Chi bộ bản Pu Lau cho biết: Trước khi mở rộng diện tích dứa, sinh kế của bà con chủ yếu trông chờ vào trồng sắn, ngô nên đời sống khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao. Từ năm 2017 đến nay, các hộ bắt đầu tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong khoảng thời gian đó, dứa mật đã giúp gần 10 hộ gia đình trong bản thoát nghèo. Sau khi mở rộng diện tích, các triền đồi quanh bản đều được bao phủ bởi dứa, nhà ít thì 1.000 - 2.000m2, nhà nhiều thì 1ha. Cả bản có 112 hộ, 417 nhân khẩu; nhờ phát triển dứa, hiện tại chỉ còn 7 hộ nghèo. Dứa mật dần trở thành nguồn thu nhập chính, ổn định tại địa bàn. Nhờ sự hiệu quả trong phát triển kinh tế cũng như sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền xã, thời gian tới bản Pu Lau sẽ tích cực học tập khoa học, kĩ thuật cũng như phối hợp thực hiện dự án mở rộng thêm 20ha dứa theo chủ trương của xã. Ðồng thời, đối với diện tích trồng tự phát của các hộ dân, sẽ cố gắng phát triển thêm 50ha để dứa mật trở thành cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội của người dân bản Pu Lau.

Hiện đang là vụ thu hoạch dứa, dọc đường lớn đi qua bản là các lán tạm, sau mỗi chuyến xe chở dứa từ nương là cảnh tấp nập dỡ hàng, phân loại, đóng gói… của người bán, người mua; mỗi người một công, một việc rộn ràng, vui vẻ. Anh Vàng A Sống, người dân bản Pu Lau chia sẻ: Những năm trở lại đây nhờ dứa mà gia đình ổn định cuộc sống, không còn bị thiếu thốn bủa vây. Hiện tại, gia đình trồng gần 3.000m2 dứa, mặc dù diện tích không nhiều bằng một số hộ trong bản nhưng cũng đủ để trang trải cuộc sống. Mỗi cân dứa có giá dao động từ 8.000 - 12.000 đồng; mỗi lần thu hoạch đều được các thương lái đến tận nơi thu mua. Bản Pu Lau nằm cạnh đường vành đai biên giới kết nối quốc lộ 279, giao thông khá thuận lợi, xe khách chạy qua thường xuyên, liên tục nên ngoài buôn bán trực tiếp với thương lái, đối với những khách ở xa cũng có thể đóng hộp và gửi xe cho khách. Ước tính, gia đình thu nhập trên 40 triệu đồng mỗi vụ. Thời gian tới, khoảng đầu tháng 9, sau khi hết mùa, gia đình sẽ vỡ đất ở một số nương trồng lúa, ngô năng suất thấp còn lại thay thế bằng trồng dứa để phát triển kinh tế.

Với sự hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu cây trồng, dứa mật đang ngày một khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống của bà con bản Pu Lau. Thời gian tới, cây dứa được kỳ vọng sẽ là cây trồng mũi nhọn trong xóa nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Trần Nhâm

Thay đổi nhận thức người dân thông qua các mô hình sản xuất nông nghiệp

ĐBP - Nhằm thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu, kém hiệu quả sang hướng nâng cao năng suất, giá trị cây trồng, vật nuôi, những năm qua các cấp, ngành chuyên môn đã triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp trình diễn, kiểu mẫu… tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống và thu nhập của người dân.

Cán bộ cơ quan chuyên môn huyện Ðiện Biên Ðông kiểm tra mô hình trồng lê vàng trên địa bàn xã Háng Lìa.

Xã Háng Lìa (huyện Ðiện Biên Ðông) là xã vùng cao, thuần nông. Ðời sống người dân chủ yếu phụ thuộc nông nghiệp. Tuy nhiên, tập quán canh tác của người dân còn lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tự phát. Ðơn cử như cây lê vàng trên địa bàn xã được cơ quan chuyên môn đánh giá hiệu quả, chất lượng, có thể phát triển trở thành cây mũi nhọn. Tuy nhiên người dân chủ yếu trồng theo kiểu tự phát, chưa áp dụng khoa học kỹ thuật nên năng suất, sản lượng thấp, chưa mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân. Ðể thay đổi nhận thức của người dân, năm 2020 Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Ðiện Biên Ðông triển khai mô hình trồng cây lê vàng trên địa bàn xã Háng Lìa. Mô hình triển khai trên diện tích 1ha với 5 hộ dân tham gia. Các hộ dân được hỗ trợ giống cây, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và được hướng dẫn kỹ thuật trồng. Sau 3 năm thực hiện mô hình, đến nay cây lê vàng bắt đầu cho thu hoạch. Qua tổng kết, đánh giá, mô hình cho năng suất gấp 2 - 3 lần so với người dân trồng tự phát.

Ông Phạm Quang Thành, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Ðiện Biên Ðông cho biết: Triển khai thực hiện mô hình, mục tiêu chính nhằm chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã được thực hiện hiệu quả; góp phần chuyển đổi cơ cấu sang cây trồng có giá trị kinh tế cao. Mô hình góp phần thay đổi tư duy của người dân, hướng đến sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế. Sau khi kết thúc mô hình, những hộ tham gia đã chia sẻ với những hộ lân cận về kiến thức, khoa học kỹ thuật, nhờ đó mô hình trồng lê vàng trên địa bàn xã Háng Lìa được nhân rộng trong xã và các xã Xa Dung, Tìa Dình.

Tương tự, nhằm thay đổi tập quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của người dân, năm 2020 Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tủa Chùa triển khai mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khoai sọ tại xã Trung Thu với diện tích 4ha. Ðến nay mô hình được duy trì và nhân rộng hiệu quả. Hiện nay, năng suất khoai đạt trung bình 12,5 tấn/ha, giá bán tối thiểu 8.000 đồng/kg; trừ chi phí trung bình đạt 50 triệu đồng/ha. Hiện toàn xã có gần 300 hộ dân được liên kết, mở rộng diện tích sản xuất lên hơn 40ha. Mô hình trồng khoai sọ không chỉ được trồng trên địa bàn xã Trung Thu mà còn mở rộng sang nhiều xã khác của huyện Tủa Chùa.

Là một trong những người tham gia mô hình, anh Thào A Làng chia sẻ: Gia đình tham gia trồng 2.500m2 khoai sọ do Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện triển khai. Tôi đã được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm sản xuất; đồng thời biết kết hợp chặt chẽ giữa kinh nghiệm của địa phương với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, giống mới vào sản xuất. Nhờ đó, khoai sọ đạt năng suất cao, giảm công sức lao động. Nhất là tôi đã học tập được sản xuất theo hướng tập trung, hàng hóa, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Những năm qua, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp được thực hiện đã góp phần thay đổi tư duy sản xuất của người dân. Từ nguồn vốn các chương trình khuyến nông, giai đoạn 2016 - 2021, tổng kinh phí chi cho các hoạt động khuyến nông trên địa bàn tỉnh là hơn 32 tỷ đồng. Riêng kinh phí dành cho thực hiện trình diễn các mô hình là gần 24 tỷ đồng. Toàn tỉnh đã đầu tư phát triển được 217 mô hình khuyến nông; trong đó có 182 mô hình về trồng trọt và 35 mô hình chăn nuôi, thủy sản. Giai đoạn 2021 - 2025, từ nguồn dự án đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo và dự án hỗ trợ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp (Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững) đã đầu tư gần 170 tỷ đồng thực hiện các mô hình sản xuất nông nghiệp. Nhiều mô hình đã mang lại hiệu quả, như: Mô hình chăn nuôi gia súc (Tủa Chùa); phát triển cây ăn quả (Tuần Giáo, Mường Ảng)… Triển khai các mô hình sản xuất nông nghiệp đã mang lại sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các hộ dân đăng kí tham gia và người dân xung quanh. Sự thay đổi về tư duy, nhận thức của người nông dân đã góp phần sản xuất các loại nông sản an toàn, hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vững.

Bài, ảnh: Văn Tâm

 

Người dân Mường Nhà thoát nghèo nhờ trồng dứa

Điện Biên TV - Khoảng 7 năm trở lại đây, nhận thấy cây dứa mật là loại cây trồng có chất lượng, rất phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng, chính quyền địa phương đã tích cực vận động để người dân xã Mường Nhà chuyển đổi diện tích trồng ngô, lúa nương kém hiệu quả sang trồng loại cây này. Cây dứa mật dần trở thành cây trồng chủ lực giúp người dân Mường Nhà xóa đói giảm nghèo.

Hơn 1 tuần qua, cứ vào sáng sớm, anh Vàng A Sống ở bản Pu Lau, xã Mường Nhà lại lên nương để thu hoạch dứa mang về bán cho các thương lái từ thành phố Điện Biên Phủ vào mua.

Trước đây gia đình anh thuộc hộ nghèo, thu nhập gia đình phụ thuộc vào lúa nương. Từ năm 2016, anh đã chuyển đổi gần 3.000m2 đất trồng lúa nương sang trồng giống dứa mật, mỗi vụ dứa mang lại thu nhập khoảng 40 triệu đồng, một nguồn thu đáng kể đối với hộ nghèo.

“Trước đây tôi cũng làm nương lúa thôi, nhưng từ năm 2016, tôi thấy cây dứa phát triển kinh tế tốt nên tôi phá lúa nương sang trồng dứa. Từ năm 2016 tới nay, cây dứa cũng giúp chúng tôi phát triển kinh tế, giảm được đói nghèo rồi.” - anh Vàng A Sống, nói.

Hầu hết 112 hộ dân bản Pu Lau đều trồng dứa, hộ trồng ít thì vài trăm mét, hộ trồng nhiều thì vài ha. Hiện cả bản có trên 50ha đất trồng dứa và là bản có diện tích dứa mật lớn nhất trong xã Mường Nhà. Ban đầu người dân chỉ trồng tự phát, tuy nhiên những năm gần đây, nhờ sự tuyên truyền của chính quyền địa phương, cây dứa được người trồng phổ biến và mở rộng diện tích theo từng năm.

1
Giá trị kinh tế mà cây dứa mật mang lại đang giúp đời sống của người dân Mường Nhà ngày một cải thiện.

Ông Vàng A Tếnh, Bí thư Chi bộ bản Pu Lau, xã Mường Nhà, huyện Điện Biên, cho biết: “Qua các năm từ 2017 trở lại đây, cây dứa trở thành nguồn thu chính cho người dân. Nhờ cây dứa  mà đời sống các hộ gia đình khá giả, nhiều hộ thoát nghèo.”

Hiện toàn xã Mường Nhà có trên 60 ha dứa của gần 300 hộ dân thuộc 6 bản, với sản lượng từ 20-25 tấn dứa/năm. Dứa Mường Nhà được trồng trên các sườn đồi với đặc điểm quả to hơn các loại dứa bình thường, trung bình khoảng 2-3kg/quả; quả nhiều nước, mắt nông, ngọt, mép lá không có gai. Thời gian thu hoạch từ cuối tháng 6 đến hết tháng 8 hàng năm. Cây dứa cho thu hoạch ổn định từ năm thứ 3 đến năm thứ 7.

Hiện nay, giống dứa mật đã được xác định là cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế ở vùng đất dốc, thay thế cho những cây trồng kém hiệu quả nhằm giúp người dân Mường Nhà nâng cao thu nhập.

Theo định hướng của chính quyền xã, trong năm 2023, xã sẽ mở rộng diện tích thêm 20 ha đất trồng dứa. Đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật cho nông dân, giúp nâng cao năng suất, sản lượng và đặc biệt là mục tiêu sản xuất 100% theo hướng hữu cơ, phát triển sản phẩm dứa Mường Nhà trở thành một trong những sản phẩm OCOP tiêu biểu của địa phương./.

 

 

Đức Long/DIENBIENTV.VN

Lợi ích kép chính sách dịch vụ môi trường rừng ở Sín Thầu

ĐBP - Thời gian qua, nguồn tiền từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đã đem lại lợi ích kép cho người dân xã Sín Thầu (huyện Mường Nhé) nói riêng và nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh nói chung. Việc sử dụng đúng mục đích và chi tiêu hợp lý nguồn tiền này đã góp phần quan trọng để người dân xã Sín Thầu thực hiện nhiều cách làm hay, mô hình kinh tế hiệu quả cho thu nhập ổn định. Khi cuộc sống của bà con ổn định sẽ hạn chế các hành vi xâm hại rừng và giữ gìn sự đa dạng, phong phú của hệ sinh thái tự nhiên.

Nhờ có tiền DVMTR, ông Sùng Sinh Phạ, bản Tả Kố Khừ (xã Sín Thầu) có thêm điều kiện kiên cố chuồng trại, đầu tư phát triển đàn bò của gia đình.

Cuối năm 2022, gia đình ông Mạ Duy Công, bản A Pa Chải (xã Sín Thầu) đã dành dụm đủ tiền để dựng ngôi nhà mới. Do đời sống phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp nên để làm được ngôi nhà khang trang là việc không dễ dàng với gia đình ông Công. Vậy nên, ngoài việc huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau thì tiền DVMTR hàng năm gia đình ông đều tích cóp, tiết kiệm dành để làm nhà. Ông Công chia sẻ: “Nếu không có tiền DVMTR, để làm được một ngôi nhà đàng hoàng, chúng tôi phải làm việc rất vất vả. Bởi vì gia đình không có nguồn thu ổn định nên mỗi năm sau khi nhận được tiền DVMTR đều để dành, góp vào dựng nhà. Nguồn tiền DVMTR dù không quá lớn nhưng giúp ích rất nhiều cho các nhu cầu trong đời sống như phát triển chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, phục vụ cuộc sống gia đình”.

Được chi trả DVMTR, các hộ dân ở Sín Thầu mua sắm dụng cụ, phương tiện phục vụ sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác. Hiện nay, ở xã Sín Thầu có trên 90% hộ dân có máy cày bừa, máy phay, máy tuốt lúa và trên 50% hộ dân có máy xay xát. Người dân Sín Thầu mua sắm phương tiện, thiết bị và máy sản xuất đều nhờ vào nguồn tiền DVMTR.

Được hưởng tiền DVMTR hàng năm, gia đình ông Sùng Sinh Phạ, bản Tả Kố Khừ (xã Sín Thầu) thấy được ý nghĩa quan trọng của việc giữ rừng. Ông Phạ chia sẻ: “Hàng năm, gia đình tôi được hưởng tiền chi trả DVMTR khoảng 20 triệu đồng. Chúng tôi dùng tiền đó mua trâu, bò phát triển kinh tế; mua máy móc hỗ trợ sản xuất nông nghiệp giúp cho mình làm đỡ vất vả hơn. Chính vì vậy, gia đình cũng như người dân trong xã đều ý thức được cần phải giữ rừng thật tốt, có như vậy mới được hưởng tiền DVMTR hàng năm, từ đó có điều kiện mua sắm đồ đạc, thiết bị, phục vụ cuộc sống của mình”.

Nhiều gia đình trên địa bàn xã Sín Thầu mua máy móc phục vụ sản xuất từ tiền DVMTR.

Cùng với các gia đình khác trong xã, gia đình ông Pờ Pó Lòng ở bản A Pa Chải dành tiền DVMTR nhận được trong năm đầu tư kiên cố hóa chuồng trại, vừa nhằm bảo vệ môi trường, vừa giúp gia đình thuận lợi hơn trong việc chăm sóc vật nuôi hạn chế dịch bệnh.

Theo thống kê, hàng năm, trung bình mỗi hộ dân trên địa bàn xã Sín Thầu được hưởng từ 15 - 30 triệu đồng tiền DVMTR. Số tiền được hưởng không quá lớn nhưng góp phần giảm bớt nỗi lo chi phí cho các gia đình, nhất là với gia đình nghèo hoặc các hộ có nhiều con trong độ tuổi đi học, người ốm đau. Người dân xã Sín Thầu sống phụ thuộc vào nông nghiệp, tiền DVMTR là nguồn kinh phí đầu tư mua sắm phương tiện máy móc, dụng cụ lao động, vật tư nông nghiệp hay các loại cây, con giống phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tăng thu nhập. Cũng nhờ có nguồn tiền DVMTR mà nhiều hộ đã có thêm điều kiện cho con em ăn học và có nghề nghiệp ổn định. Ông Mạ Xào Hòa, Trưởng bản Tả Kố Khừ cho biết: “Việc chăm lo cho con cháu ăn học cũng phụ thuộc vào khoản tiền được hưởng từ chính sách chi trả DVMTR. Nhờ có tiền DVMTR mà nhiều cháu được ăn học đến nơi, đến chốn. Vì lẽ đó, trong bản, thậm chí cả xã ngày càng nhiều con em theo học tại các trường chuyên nghiệp. Từ đó các em có thể có công việc ổn định và thoát ly trong tương lai là điều kiện giúp cho quê hương biên giới Sín Thầu phát triển hơn”.

Từ thực tế hiệu quả sử dụng tiền DVMTR ở xã Sín Thầu phần nào minh chứng thêm về lợi ích kép từ chính sách chi trả DVMTR. Bởi khi bà con sử dụng hiệu quả nguồn tiền DVMTR, đồng nghĩa với việc họ đã ý thức được việc chăm lo phát triển kinh tế, phục vụ cuộc sống của mình ngày một tốt hơn. Cuộc sống ổn định, ý thức về việc giữ rừng nâng cao là những điều kiện quan trọng để giảm các hoạt động khai thác lâm sản; hạn chế những tác động xấu đến rừng, góp phần bảo vệ toàn vẹn những cánh rừng và hệ sinh thái.

Bài, ảnh: Quang Hưng

 

Tăng cường kiểm soát thị trường vùng biên

ĐBP - Có đường biên giới quốc gia tiếp giáp với 2 nước Lào và Trung Quốc, huyện Mường Nhé là địa bàn tiềm ẩn nhiều nguy cơ buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép. Tăng cường kiểm soát thị trường vùng biên, Đội Quản lý thị trường (QLTT) số 4 đã tích cực triển khai nhiều giải pháp ổn định thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Cán bộ Đội QLTT số 4 kiểm tra hoạt động kinh doanh hàng hóa tại xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé.

Hiện nay, Đội QLTT số 4 thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trên địa bàn 4 huyện thị: Mường Chà, Mường Nhé, Nậm Pồ và TX. Mường Lay. Địa bàn quản lý rộng, địa hình phức tạp, chủ yếu là các xã biên giới giao thông khó khăn; cơ sở buôn bán, kinh doanh phân tán, nhỏ lẻ rất khó kiểm soát chặt chẽ. Trong khi đó nhận thức của người dân trên địa bàn không đồng đều, đời sống kinh tế còn khó khăn. Tại huyện Mường Nhé, đa số cơ sở kinh doanh tập trung ở trung tâm huyện và một số xã: Mường Toong, Chung Chải, Quảng Lâm. Trên địa bàn 6 xã biên giới: Sín Thầu, Sen Thượng, Chung Chải, Leng Su Sìn, Mường Nhé và Nậm Kè tiềm ẩn nhiều nguy cơ các đối tượng xấu lợi dụng đưa hàng giả, hàng kém chất lượng xâm nhập thị trường với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó lường. Do đó, cùng với việc triển khai theo kế hoạch kiểm tra định kỳ đã được phê duyệt, Đội QLTT số 4 thường xuyên thực hiện việc kiểm tra đột xuất và chuyên đề. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng và chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên truyền tới người dân, nhất là tại các thôn, bản vùng sâu, giáp biên giới về phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng buôn lậu hàng cấm, hàng giả, kém chất lượng. Vận động các tổ chức, cá nhân không tiếp tay cho hành vi buôn lậu, gian lận thương mại.

Ông Ngô Xuân Chiến, Phó đội trưởng phụ trách Đội QLTT số 4 cho biết: Với tổng số 165 hộ kinh doanh, hầu hết thương nhân trên địa bàn huyện Mường Nhé đã có ý thức chấp hành pháp luật về đăng ký kinh doanh và các quy định trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ thương mại. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng gian lận thương mại, vi phạm ghi nhãn hàng hóa và niêm yết giá, vi phạm về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Trước thực trạng đó, Đội phân công nhiệm vụ cụ thể, giao từng cán bộ phụ trách địa bàn các xã thường xuyên thống kê tình hình tăng, giảm thương nhân. Chủ động bám, nắm địa bàn thu thập thông tin, dự báo tình hình, xu hướng thị trường; kiểm tra và phát hiện kịp thời các hành vi gian lận thương mại. Từ đầu năm đến nay Đội đã kiểm tra, xử lý 30 vụ; xử lý vi phạm hành chính 10 vụ, thu nộp ngân sách Nhà nước hơn 30 triệu đồng, chủ yếu là các vụ vi phạm về giá, ATTP… Hàng hóa vi phạm buộc tiêu hủy là 30 gói bánh dẻo bị hỏng, mốc. Đồng thời, Đội chủ động tham gia các đoàn kiểm tra liên ngành thực hiện kiểm tra 70 cơ sở trên địa bàn quản lý. Qua đó kịp thời phát hiện, xử lý những trường hợp vi phạm. Cuối tháng 3/2023, Đội QLTT số 4 đã phát hiện, xử phạt ông Bùi Văn Hùng, xã Mường Nhé tổng số tiền 7,5 triệu đồng về hành vi không mở sổ theo dõi hoặc cơ sở dữ liệu điện tử ứng dụng công nghệ thông tin theo dõi chai LPG (khí hoá lỏng) tại cửa hàng bán lẻ LPG chai.

Cùng với tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm, thời gian tới Đội QLTT số 4 xác định chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vận động Nhân dân tham gia tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về sản xuất, kinh doanh hàng hoá đến các cơ quan chức năng. Đồng thời tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kiểm tra kiểm soát cho cán bộ, công chức QLTT; áp dụng hệ thống phần mềm INS trong thụ lý hồ sơ vụ việc xử lý vi phạm hành chính; đầu tư phương tiện phục vụ công tác kiểm tra, xử lý vi phạm.

Bài, ảnh: Đức Kiên

 

Mùa xoài ngọt từ nỗ lực phục hồi vườn cây

ĐBP - Những vườn xoài chậm phát triển, sâu bệnh, không được quan tâm chăm sóc, vườn cây tiêu điều, xơ xác. Với nỗ lực chăm sóc, phục hồi vườn xoài của bà con, năm nay các vườn xoài tại Tuần Giáo đã cho mùa trái ngọt. Ngọt không chỉ từ chất lượng quả mà còn là giá trị kinh tế - thành quả từ sự nỗ lực phục hồi vườn cây của bà con.

Lãnh đạo huyện Tuần Giáo thăm vườn xoài đang thu hoạch tại xã Rạng Đông. Ảnh: Nguyễn Hiền

Còn nhớ năm 2022 xoài mất mùa. Nhiều diện tích xoài Đài Loan tại Tuần Giáo bị che kín bởi ngô, sắn. Không ít hộ dân không quan tâm phát triển vườn cây, chưa thực sự coi vườn cây là của mình, có nguy cơ bỏ không chăm sóc. Tình trạng người dân lấy phân bón được cấp theo dự án liên kết phát triển xoài để sử dụng vào mục đích khác diễn ra phổ biến. Trước thực tế đó, đầu năm nay, cả hệ thống chính trị huyện Tuần Giáo cùng vào cuộc ra quân chăm sóc cây ăn quả, làm điểm từng xã, bản, làm mẫu một góc vườn... để tuyên truyền, vận động, lan tỏa, thúc đẩy người dân quan tâm chăm sóc các vườn xoài, đón mùa quả mới.

Không phụ công sức, những ngày này, huyện Tuần Giáo đang khẩn trương thu hoạch xoài cuối vụ cung ứng cho công ty thu mua. Niềm vui nhân đôi khi năm nay xoài được mùa, không mất giá. Đây cũng là năm đầu tiên, sản phẩm xoài Đài Loan trên địa bàn huyện được công ty thu mua toàn bộ sản lượng.

Rạng Đông một trong những xã có diện tích xoài lớn nhất của huyện Tuần Giáo. Năm nay xã có 10ha xoài cho thu hoạch, sản lượng ước đạt hơn 20 tấn. Tại các vườn xoài, nông dân xã Rạng Đông hối hả thu hoạch để kịp xuất bán. Cả gia đình ông Bùi Hữu Văn ở bản Rạng Đông, xã Rạng Đông đang thu hoạch và đóng xoài thành từng sọt chờ công ty đến thu mua. Ông Văn cho biết: “Nhà tôi hiện có 400 gốc xoài với diện tích hơn 1ha, trồng từ tháng 9/2019. Sau 4 năm thì đây là năm đầu tiên xoài đạt năng suất, sản lượng cao nhất”.

Trao đổi với chúng tôi, ông Lầu A Sính, Chủ tịch UBND xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo cho biết: “Khi quả xoài gần đến độ thu hoạch, xã đã chỉ đạo cán bộ khuyến nông phối hợp cùng doanh nghiệp hướng dẫn bà con thu hái đúng quy cách, đảm bảo chất lượng quả, đáp ứng yêu cầu của đơn vị thu mua. Trong thời gian tới, xã sẽ tiếp tục chỉ đạo cán bộ khuyến nông hướng dẫn bà con cách chăm sóc làm sao để nâng cao năng suất, chất lượng quả xoài, đảm bảo đúng tiêu chí, tiêu chuẩn của công ty thu mua”.

Người dân bản Pha Nàng, xã Quài Nưa phân loại xoài xuất bán cho Công ty. Ảnh: Nguyễn Hiền

Xã Quài Nưa có 12ha xoài trồng từ năm 2018, 2019 theo dự án liên kết sản xuất, tiêu thụ cây ăn quả, chủ yếu tại khu vực 2 bản Pha Nàng và Chan. Gia đình anh Lường Văn Thoại có vườn xoài với hơn 80 cây. Anh Thoại chia sẻ: “Khi toàn huyện vận động, tuyên truyền chăm sóc vườn cây, gia đình tôi cũng quan tâm làm cỏ, chăm bón các gốc xoài hơn. Năm nay vườn nhà tôi thu được khoảng 3 tạ xoài. Đầu mùa thấy xoài các nơi có vẻ được mùa, giá cũng không cao nên gia đình hơi lo ngại, nhưng công ty đã đến thu mua hết, vừa thuận lợi và ổn định giá cả, chúng tôi rất yên tâm”.

Được biết, Công ty cổ phần Giống rau hoa quả Trung ương là đơn vị liên kết bao tiêu sản phẩm xoài tại Tuần Giáo. Năm nay, Công ty thu mua xoài với 2 mức giá, quả loại 1 từ 7 lạng trở lên/quả có giá 10.000 đồng/kg; xoài loại 2 dưới 7 lạng/quả có giá 7.000 đồng/kg. 

Hiện toàn huyện Tuần Giáo có trên 30ha xoài Đài Loan cho thu hoạch, sản lượng ước đạt 62 tấn; tập trung ở các xã: Quài Cang, Quài Nưa, Pú Nhung, Rạng Đông, Nà Tòng và Mường Mùn. Từ giữa tháng 6, nhiều vườn xoài ở các xã đã bắt đầu cho thu hoạch. Ông Nguyễn Huy Đức, đại diện Công ty Cổ phần Giống rau hoa quả Trung ương, cho biết: “Thực hiện dự án liên kết phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm tại huyện Tuần Giáo, Công ty thực hiện đúng cam kết, đến địa bàn bao tiêu sản phẩm cho người dân. Mùa xoài năm nay quả đều và chất lượng hơn những vụ trước. Nhưng bà con chưa đầu tư nhiều vào bọc quả nên mẫu mã và kích cỡ vẫn chưa như kỳ vọng. Phần lớn là xoài lại 2. Chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp để nâng cao nhận thức, kỹ thuật canh tác của người dân, nâng cao chất lượng quả”.

Từ năm 2017 đến nay, Tuần Giáo phát triển hơn 435ha cây ăn quả các loại, trong đó một nửa diện tích là xoài Đài Loan, gắn với tái cơ cấu nông nghiệp huyện. Qua mùa xoài này, người dân thấy được lợi ích kinh tế của vườn cây ăn quả và thực sự coi đây là tài sản của gia đình mình; cùng sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền, kỳ vọng các vườn xoài tại Tuần Giáo sẽ phục hồi tốt, cho thu hoạch nhiều hơn, chất lượng hơn trong những năm tới…

Thanh Niên

Thúc đẩy hoạt động xuất, nhập khẩu

ĐBP - Sau 3 năm bị hạn chế do dịch bệnh Covid-19, hoạt động xuất, nhập khẩu (XNK) trên địa bàn tỉnh đang phục hồi và tăng trưởng. Cùng với việc thông quan trở lại và mở thêm lối mở; các chính sách triển khai đảm bảo đúng quy định đã tạo điều kiện cho thương nhân và người dân khu vực biên giới đẩy mạnh các hoạt động XNK hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Người dân khu vực biên giới tham quan, tìm hiểu hàng hoá trưng bày tại lối mở Nậm Đích - Huổi Hịa.

Giữa tháng 5/2023, cặp lối mở Nậm Đích (huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, nước CHXHCN Việt Nam) và Huổi Hịa (huyện Mường Mày, tỉnh Phoong Sa Lỳ, nước CHDCND Lào) chính thức khai trương đã tạo cơ hội thuận lợi để cho cư dân biên giới 2 bên giao thương hàng hóa, phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, củng cố quan hệ hợp tác giữa 2 tỉnh Điện Biên và Phoong Sa Lỳ. Để tiếp tục thúc đẩy hoạt động XNK, thời gian tới tỉnh ta sẽ phối hợp với các bên liên quan triển khai hoạt động cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập cảnh, XNK; nâng cấp đường giao thông đến lối mở, tương lai sẽ nâng cấp lối mở thành cửa khẩu phụ.

Hiện nay Cửa khẩu quốc gia Huổi Puốc đã hoạt động thông quan trở lại. Hoạt động XNK trên địa bàn và giá cả thị trường qua các cửa khẩu, lối mở trên địa bàn tỉnh giữ ổn định; không có tình trạng ùn tắc hàng hóa. Nhằm tăng cường trao đổi giao thương, đẩy mạnh hoạt động thương mại khu vực miền núi, biên giới, các phiên chợ thương mại biên giới cũng được Sở Công thương Điện Biên tổ chức thường xuyên hơn. Điển hình như phiên chợ thương mại biên giới tại huyện Nậm Pồ vừa được Sở Công thương tổ chức đã tạo điều kiện để người dân vùng cao và cư dân biên giới 2 nước Việt - Lào tiếp cận nhiều loại hàng hóa, thúc đẩy tiêu dùng. Tại phiên chợ, gần 20 tổ chức, doanh nghiệp, thương nhân Việt Nam và Lào đã có cơ hội tìm hiểu, giao thương, cung cấp các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Đây cũng là cơ hội để người dân 2 hai bên có thêm lựa chọn mua sắm hàng hóa chất lượng tốt, giá cả hợp lý; các doanh nghiệp đẩy mạnh kênh phân phối vào thị trường miền núi, biên giới...

Từ đầu năm đến nay, hoạt động XNK và thương mại qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới, dịch vụ du lịch với Lào đã được hoạt động trở lại. Ngành Công thương Điện Biên đã đẩy mạnh tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế, hướng dẫn các đơn vị, doanh nghiệp về chính sách miễn giảm thuế quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Triển khai thực hiện các nội dung hợp tác quốc tế về kinh tế với các tỉnh Bắc Lào; Vân Nam (Trung Quốc), hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện thuận lợi giúp các thương nhân ký kết và thực hiện các hợp đồng XNK; đầu tư liên doanh, liên kết với thương nhân tại các tỉnh Bắc Lào. Ngoài ra, triển khai chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới Điện Biên đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 và các kế hoạch thực hiện các Hiệp định UKVFTA, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt là triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại biên giới Việt Nam - Lào; ký kết Biên bản hợp tác với Sở Công thương 6 tỉnh Bắc Lào giai đoạn 2021-2023. Ngành cũng tổ chức các đoàn công tác tham gia hoạt động hợp tác phát triển thương mại giữa các tỉnh của Lào với tỉnh Điện Biên.

Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, hợp tác, 6 tháng đầu năm tổng kim ngạch XNK hàng hóa, dịch vụ và hoạt động trao đổi thương mại biên giới tỉnh Điện Biên ước đạt 47 triệu USD (tăng 4,86% so với cùng kỳ năm trước, đạt 39% kế hoạch năm 2023). Trong đó, xuất khẩu ước đạt 36 triệu USD (tăng 11% so với cùng kỳ, đạt 45% kế hoạch). Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông sản, hàng hóa tiêu dùng và vật liệu xây dựng (sắt thép xây dựng). Đối với nhập khẩu, toàn tỉnh ước đạt 11 triệu USD (bằng 87% cùng kỳ; đạt 27% so kế hoạch năm). Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu qua Cửa khẩu quốc tế Tây Trang như: Nông - lâm sản, máy móc thiết bị phục vụ thủy điện.

Bài, ảnh: Đức Kiên

 

Phát huy nội lực trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm OCOP

Điện Biên TV - Ngày 24/2/2021, UBND tỉnh Điện Biên đã ban hành Quyết định số 211 phê duyệt Đề án “Mỗi xã một sản phẩm” giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu tổng quát là đưa Đề án trở thành chương trình kinh tế trọng tâm của tỉnh, góp phần phát huy tiềm năng thế mạnh của các địa phương. Hiện thực hóa mục tiêu đó, các đơn vị, doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đã phát huy nội lực, tích cực đổi mới cách thức sản xuất, định vị thương hiệu và phát huy tối đa sức sáng tạo của người dân. Qua đó, nhiều sản phẩm OCOP đã bước đầu “Gắn sao trong lòng người tiêu dùng”, khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, tạo sức bật cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

1
13 ha chè trồng tại xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng được Công ty TNHH trà Phan Nhất xây dựng trở thành mô hình nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn quốc gia đầu tiên của tỉnh.

Công ty TNHH trà Phan Nhất đã và đang không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trà San tuyết PH.14 hữu cơ - một trong 4 sản phẩm đạt chứng nhận 4 sao OCOP cấp tỉnh. 13 ha chè trồng tại xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng được doanh nghiệp xây dựng trở thành mô hình nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn quốc gia đầu tiên của tỉnh.

Bên cạnh đó, các quy trình sản xuất chè cũng hướng đến việc đảm bảo chất lượng, chế biến sâu với sự hỗ trợ của nhiều loại máy móc ứng dụng công nghệ cao hiện đại. Riêng năm 2022 doanh nghiệp đã sản xuất khoảng 11 tấn chè khô với các loại sản phẩm chủ yếu gồm: trà San tuyết PH.14 hữu cơ; trà xanh hữu cơ Phan Nhất... được thị trường khá ưa chuộng với mức tiêu thụ mạnh.

1
Đóng gói sản phẩm cà phê Hồng Kỳ của Công ty Cổ phần Hồng Kỳ Quốc tế.

Phát huy nội lực trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm OCOP, cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, các đơn vị, doanh nghiệp, hợp tác xã có sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh đang chú trọng xây dựng liên kết sản xuất bền vững; thường xuyên tham gia các hội chợ, hoạt động xúc tiến thương mại, góp phần mở rộng thị trường. Đặc biệt là tăng cường ứng dụng công nghệ để chuyển đổi số; đẩy mạnh bán hàng qua mạng xã hội, các sàn thương mại điện tử... Đây được xem là giải pháp quan trọng để sản phẩm OCOP nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị.

56 sản phẩm OCOP của tỉnh hiện đều đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và tạo niềm tin đối với người tiêu dùng; nhiều sản phẩm đủ điều kiện vào các siêu thị, hệ thống phân phối hiện đại trong và ngoài tỉnh. Bên cạnh đó, không chỉ hướng đến thị trường trong nước, một số chủ thể kinh tế như: Công ty Cổ phần Hồng Kỳ Quốc tế, Công ty TNHH Hương Linh Điện Biên,... đang xây dựng kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất sản phẩm OCOP của đơn vị và hoàn thiện các điều kiện của thị trường với đích đến là xuất khẩu ra nước ngoài.

1
Không ít sản phẩm OCOP đã được phân phối trên hệ thống siêu thị cả trong và ngoài tỉnh Điện Biên.

Chương trình OCOP được triển khai đã thổi luồng gió mới vào khu vực kinh tế nông thôn, chuyển đổi sản xuất theo hướng tăng quy mô gắn với chuỗi giá trị, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn; tạo đà thúc đẩy và nâng cao năng lực của các chủ thể, nhất là khu vực hợp tác xã, tổ hợp tác trong tổ chức sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông sản đặc sản, đặc trưng của từng địa phương. Tỉnh Điện Biên phấn đấu giai đoạn 2021 - 2025 có ít nhất 90 - 100 sản phẩm OCOP đạt từ 3 - 4 sao cấp tỉnh; có 5 - 7 sản phẩm OCOP tiềm năng đạt 5 sao cấp quốc gia đủ tiêu chuẩn xuất khẩu./.

 

 

Phương Dung - Ngọc Hải/DIENBIENTV.VN

  • 1
  • ...
  • 5
  • 6
  • 7
  • ...
  • 8

 

HỆ THỐNG PHẢN ÁNH THÔNG TIN TỈNH ĐIỆN BIÊN      

 

Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên

Địa chỉ: Tổ 04, phường Nam Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Chịu trách nhiệm chính: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên

Điện thoại: 0251.3835.666

Email: paht@dienbien.gov

Chung nhan Tin Nhiem Mang ỨNG DỤNG DI ĐỘNG

TẢI ỨNG DỤNG NGAY

Android IOS

Mô tả hình ảnh 1 Mô tả hình ảnh 2 Mô tả hình ảnh 3

 

 

#

#

#

#

Gửi lại mã xác thực en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập

Vui lòng nhập mã xác thực chúng tôi đã gửi vào số điện thoại của bạn en

Vui lòng nhập mã xác thực

Nếu bạn đăng ký thông tin sai! Vui lòng click vào đây để đăng ký lại thông tin tài khoản! en
OTP sẽ hết hạn sau

Cập nhật thông tin en

Đăng ký tài khoản en

Vui lòng chọn đối tượng đăng ký
Vui lòng nhập họ tên
Vui lòng nhập CMND/CCCD
Vui lòng nhập số điện thoại/ Số điện thoại không đúng
Vui lòng nhập mã số thuế
Vui lòng chọn lĩnh vực
Vui lòng chọn loại văn bản
Vui lòng nhập mật khẩu
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập xác nhận mật khẩu/ Xác nhận mật khẩu không đúng
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt

Đăng nhập en

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập
Vui lòng nhập mật khẩu
Quên mật khẩu en
Nếu tài khoản của bạn chưa kích hoạt? Click vào đây để gửi lại mã xác nhận! en