Tìm kiếm
  • Phản ánh hiện trường
  • Chuyên mục
    • Chính trị - Kinh tế
      • Kinh tế - Thị trường
      • Chính trị - Kinh tế
    • Văn hóa - Xã hội
      • Văn hóa - Xã Hội
      • Thời tiết - Thiên tai
      • Văn hóa, Du lịch
      • Chuyển đổi số
    • An ninh - Quốc phòng
      • Trật tự đô thị
      • Vi phạm giao thông
      • Vi phạm pháp luật
      • An ninh - Quốc phòng
    • Cơ sở hạ tầng
      • Cơ sở hạ tầng
      • Hạ tầng điện, viễn thông
      • Trật tự xây dựng
      • Kiểm tra - Giám sát
    • Y tế - Giáo dục
      • Vệ sinh an toàn thực phẩm
      • Thông tin dịch bệnh
      • Giáo dục - Y tế
      • Y tế
    • Môi trường
      • Vệ sinh môi trường
    • Thông tin
      • Thông tin
    • Khác
      • Lĩnh vực khác
      • Thống kê
  • Giới thiệu
  • Hướng dẫn
  • Bản đồ
  • IOS Android
  • Đăng nhập
  • Đăng ký
IOS Android
  1. Trang chủ
  2. Tin mới

Văn hóa - Xã Hội

Văn hóa - Xã Hội

Độc đáo công nghệ quân sự Việt Nam - bài học về xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại-Bài 2: Kế thừa truyền thống công nghệ quân sự của dân tộc

Những đặc trưng công nghệ quân sự Việt Nam góp phần đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược được kế thừa từ hàng nghìn năm của dân tộc. Việt Nam có “mặt tiền” trông ra Biển Đông, là nơi dừng chân qua lại giữa hai đại dương lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vừa có điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu các nền văn minh trên thế giới, nhưng cũng là tâm điểm “nhòm ngó” của các thế lực bành trướng, xâm lược. Do trải qua nhiều thế kỷ chống kẻ thù xâm lược nên người Việt đã sớm biết chế tạo và sử dụng vũ khí để đánh giặc.

 

Từ công nghệ chế tạo vũ khí lạnh...

Buổi đầu, vũ khí của người Việt là các loại cung nỏ bắn tên nứa, tên tre hoặc chông tre được chế tác từ những vật liệu sẵn có trong lao động, sản xuất và đời sống. Về sau, cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, vũ khí của người Việt được chế tạo từ các kim khí như đồng và sắt. Công nghệ chế tạo vũ khí của người Việt đạt đến độ tinh xảo và từng được thần thoại hóa thành ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt trong truyền thuyết Thánh Gióng hay nỏ thần của An Dương Vương.

Thời Âu Lạc, người Việt có hai kiệt tác công nghệ quân sự là thành Cổ Loa và nỏ Liên Châu. Thành Cổ Loa có cấu trúc gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5km và vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm của thành khoảng 2km². Thành được xây bằng phương pháp đào đất, khoét hào và đắp thành lũy. Quân của An Dương Vương lợi dụng cấu trúc đặc biệt của thành Cổ Loa để phát huy hiệu quả các thứ vũ khí nhằm bảo vệ kinh đô và nhà nước Âu Lạc. Nỏ Liên Châu là thứ vũ khí cực kỳ lợi hại, từng được thần thoại hóa thành "nỏ thần". Sách sử của Trung Quốc từng mô tả: “Bằng một loạt bắn, nỏ Liên Châu có thể hạ sát 300 tên địch (Giao Châu ngoại vực ký), “mỗi phát tên đồng được phóng đi có thể xuyên qua hàng chục người" (Việt kiệu thư). Sách Việt sử lược của ta cũng chép: "An Dương Vương huấn luyện được một vạn tinh binh được trang bị nỏ thần có khả năng mỗi phát bắn phóng ra mười mũi tên". Nỏ Liên Châu là loại vũ khí đặc biệt hiệu nghiệm trong cuộc kháng chiến chống quân Triệu Đà xâm lược ở thế kỷ 2 trước Công nguyên. Minh chứng lịch sử về mũi tên đồng kỳ diệu của nỏ Liên Châu đã được các nhà khảo cổ học phát hiện ở thành Cổ Loa.

Độc đáo công nghệ quân sự Việt Nam - bài học về xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại-Bài 2: Kế thừa truyền thống công nghệ quân sự của dân tộc
Một khẩu súng thần công trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: YẾN HƯNG 

Do đặc điểm của địa bàn cư trú chủ yếu trên những vùng đồng bằng có nhiều sông ngòi, đầm và hồ, người Việt xưa đã sớm biết chế tạo các phương tiện giao thông đường thủy như thuyền, bè, ghe, mảng. Hoạt động quân sự của người Việt, dù là quân bộ hay quân thủy đều phải dùng thuyền làm phương tiện chính. Vì thế, từ rất sớm, thuyền, bè đã trở thành một loại trang bị kỹ thuật quân sự của quân đội quốc gia đầu tiên của người Việt. Các hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ cho thấy thuyền chiến của người Việt khá lớn, trang trí đẹp, dài khoảng 10-15m. Vũ khí trang bị cho thuyền chiến cũng rất đa dạng như: Rìu, giáo, lao, cung nỏ...

Quân đội Đại Việt thời Lý-Trần từng lập chiến công lẫy lừng trong phá Tống, bình Chiêm và 3 lần đánh thắng quân Mông-Nguyên xâm lược. Ngoài yếu tố chỉ đạo chiến lược tài tình của các tướng lĩnh và tinh thần chiến đấu quả cảm của các binh sĩ còn có yếu tố rất quan trọng là vũ khí, trang bị. Thời bấy giờ, cả ta và giặc vẫn chủ yếu sử dụng các vũ khí lạnh, như: Cung nỏ, lao, giáo, câu liêm, kích, trượng, máy bắn đá...

Do ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên cả đất liền và trên biển, nhà nước Đại Việt chăm lo phát triển cả quân bộ và quân thủy. Nhờ thế, thuyền chiến thời Lý rất đa dạng và phong phú về chủng loại, kích thước, trong đó có thuyền chở được vài trăm binh sĩ cùng với vũ khí, lương thảo có khả năng vượt xa hàng nghìn dặm. Loại phổ biến thời bấy giờ là thuyền mông đồng, có hai đáy an toàn và tiện lợi. Các thuyền được đặt tên là Kim Phượng, Thanh Lan, Vĩnh Xuân... vừa làm thuyền ngự, vừa làm thuyền chỉ huy, bởi thời xưa nhà vua thường đích thân chỉ huy đánh trận.

Thời Trần, người Việt đặc biệt chú trọng xây dựng thủy quân. Vốn xuất thân từ vùng ven biển, lại ưa chuộng võ nghệ, các tướng lĩnh nhà Trần ý thức được vai trò của thủy quân, tuyển chọn từ những người giỏi nghề sông nước. Trần Quốc Tuấn chủ trương: "Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Theo đó, chỉ duy trì quân số ở mức cần thiết, nhưng đặc biệt chú trọng cải tiến và phát triển thuyền chiến và thuyền vận tải để sẵn sàng huy động khi có nhu cầu chiến đấu. Nhờ thế, khi có chiến tranh, nhà Trần đã huy động một lúc được hàng nghìn thuyền chiến. Do đó, số lượng thuyền chiến trong quân đội thời Lý chỉ tính đến con số hàng trăm, còn đến thời Trần đã lên tới hàng vạn. Trong trận Vạn Kiếp năm 1285, không kể số thuyền chiến của Hưng Đạo Vương, riêng số thuyền chiến do vua Trần huy động để tăng viện đã hơn 1.000 chiếc.

Vào cuối thời Trần, đầu thời Hồ, người Việt thiết kế, chế tạo được nhiều loại thuyền chiến hiện đại nhất thời bấy giờ. Sứ thần nhà Tống và nhà Nguyên từng tận mắt chứng kiến sức mạnh của thủy quân Đại Việt. Sứ thần nhà Nguyên Trần Phu từng mô tả: "Thuyền của An Nam nhẹ và dài, ván thuyền mỏng, đuôi như cánh uyên ương. Hai bên mạn thuyền cao hẳn lên, mỗi chiếc có tới 30 mái chèo, nhiều thì đến hàng trăm. Thuyền đi như bay" (An Nam tức sự). Cổ lâu thuyền thời Hồ là loại thuyền lớn nhất, gồm hai tầng, tầng dưới có 100 mái chèo, tầng trên bố trí súng thần cơ và có sàn để quân lính cơ động... Cổ lâu thuyền và súng thần cơ đã được sử sách mô tả như những vũ khí, trang bị lợi hại nhất mà Hồ Quý Ly sử dụng trong cuộc chiến tranh chống quân Chiêm Thành và quân Minh xâm lược đầu thế kỷ 15.

... đến vũ khí nóng sử dụng thuốc súng

Do yêu cầu đánh giặc giữ nước ngày càng cao và điều kiện kinh tế, kỹ thuật cho phép, công nghệ chế tạo vũ khí, trang bị ở nước ta cũng như các nước trên thế giới có bước phát triển đột phá. Sáng chế quan trọng nhất về công nghệ quân sự cuối thời Trần, đầu thời Hồ là hỏa khí. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Vân đài loại ngữ, Việt sử thông giám cương mục, năm 1382, tại cửa biển Thần Phù (Thanh Hóa), trong trận thủy chiến với quân xâm lược Chiêm Thành trên sông Hải Triều (sông Luộc) vào tháng Giêng năm 1390, đô tướng nhà Trần là Trần Khát Chân chỉ huy chiến dịch sử dụng hỏa pháo bắn tiêu diệt thuyền chiến của vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, khiến quân giặc tan rã. Sự kiện này khẳng định, từ cuối thế kỷ 14, người Việt đã chế tạo, sử dụng có hiệu quả các loại pháo và các thứ vũ khí nóng sử dụng thuốc súng.

Độc đáo công nghệ quân sự Việt Nam - bài học về xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại-Bài 2: Kế thừa truyền thống công nghệ quân sự của dân tộc
Súng trường do Cao Thắng chế tạo trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: BTLSQG 

Hồ Quý Ly là người đẩy mạnh công cuộc cách tân đất nước và cải cách trong lĩnh vực quân sự. Trước nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng chế tạo vũ khí, trang bị cho quân đội. Tháng 6-1405, Hồ Hán Thương huy động những người giỏi công nghệ khắp cả nước để chế tạo các loại pháo lớn, nhỏ, các phương tiện hỏa công và nhiều loại vũ khí sử dụng thuốc súng. Trong đó có thần cơ sang pháo-một kiểu đại bác lớn đầu tiên ở nước ta có sức công phá rất lớn. Trang bị của quân đội thời Hồ vì thế đã có những bước tiến vượt bậc so với trước và làm thay đổi phương thức tác chiến cũng như tổ chức quân đội.

Tới triều Nguyễn, tuy công nghệ quân sự của Việt Nam có bước phát triển mới nhưng các loại vũ khí nóng của ta vẫn chưa khắc phục được một số nhược điểm so với vũ khí của các nước phương Tây như nòng súng chưa có rãnh xoắn, đại bác nạp đạn từ đầu nòng, cồng kềnh, nặng, chủ yếu phục vụ cho phòng ngự, chưa trở thành vũ khí lợi hại trong tiến công. Chính vì thế, quân đội viễn chinh Pháp trong các cuộc tiến công xâm lược nước ta hồi cuối thế kỷ 19 đã chiếm ưu thế về hỏa lực tiến công.

Năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, mở đầu phong trào chống thực dân Pháp. Thời kỳ này, nổi bật tấm gương khắc phục khó khăn để sáng chế vũ khí của nghĩa quân Hương Khê mà tiêu biểu là Cao Thắng-người từng được cụ Phan Đình Phùng phong chức Quản cơ, chuyên trách xây dựng nghĩa quân. Trong hoàn cảnh khó khăn do không có vũ khí, Cao Thắng nghĩ ra kế cướp súng của Pháp để lấy mẫu nghiên cứu. Trên cơ sở đó, Cao Thắng tập hợp thợ đúc, thợ rèn, thợ mộc, thợ hàn tinh thông kỹ nghệ từ nhiều nơi và đúc thành công 500 khẩu súng giống súng kiểu 1874 của quân Pháp. Đại úy Gosselin, một trong những sĩ quan chỉ huy quân Pháp thời bấy giờ đã viết: "Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về nước xem có hoàn toàn giống súng xưởng binh khí nước ta chế tạo không. Khi tôi đưa cho các quan binh pháo thủ xem, các ông ấy phải sửng sốt lạ lùng vì nó chỉ khác với khẩu ta chế tạo hai chỗ: Lò xo chưa đủ sức bật mạnh và trong nòng súng chưa có rãnh xoắn mà thôi. Vì thế súng bắn chưa xa, chưa mạnh".

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở cuối thế kỷ 19, sự chênh lệch về vũ khí, trang bị kỹ thuật giữa ta và địch là quá lớn. Thực dân Pháp đã lợi dụng những vũ khí và phương tiện quân sự hiện đại để đàn áp khốc liệt phong trào yêu nước của nhân dân ta. Cuối năm 1886, đầu 1887, Pháp tập trung 3.520 lính, 78 sĩ quan với trang bị 25 khẩu súng đại bác và 4 pháo hạm lớn dưới quyền chỉ huy của Đại tá Brissaud tiến công vào căn cứ Ba Đình. Tuy nhiên, chúng đã bị tổn thất lớn trước lực lượng kháng chiến của nghĩa quân ta chỉ được trang bị các loại vũ khí thua kém chúng rất nhiều về công nghệ chế tạo.

Như vậy, có thể thấy, trong lịch sử dân tộc ta trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, người Việt Nam đã chứng tỏ tài năng sáng chế vũ khí, trang bị. Đó là một truyền thống quý báu. Sau gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, với Cách mạng Tháng Tám thành công giải thoát khỏi ách nô lệ, truyền thống đó được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy, phát huy và trở thành một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh vĩ đại của chiến tranh nhân dân, góp phần vô cùng quan trọng đưa nhân dân ta vượt qua những thử thách lịch sử gay go, quyết liệt trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.

(còn nữa)

THẾ MẪU - CHÍ DŨNG

Chi tiết lịch nghỉ Tết kéo dài 9 ngày và các dịp lễ lớn năm 2025

Ngày 3/12, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã có thông báo chính thức về lịch nghỉ Tết Nguyên đán và các dịp lễ lớn trong năm 2025. Đáng chú ý, kỳ nghỉ Tết Nguyên đán sẽ kéo dài 9 ngày, kỳ nghỉ 30/4 – 1/5 kéo dài 5 ngày, còn kỳ nghỉ lễ 2/9 cũng lên đến 4 ngày.

 
  • Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội lý giải nghỉ Tết 9 ngày liên tục

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Công văn số 8726/VPCP-KGVX của Văn phòng Chính phủ về việc nghỉ Tết Âm lịch và một số dịp lễ trong năm 2025, chiều ngày 3/12, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ra thông báo cụ thể về các dịp nghỉ lễ.

Chi tiết lịch nghỉ Tết kéo dài 9 ngày và các dịp lễ lớn năm 2025 -0
Người lao động được nghỉ 9 ngày dịp Tết Nguyên đán.

Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được nghỉ Tết Âm lịch 2025 từ thứ Bảy ngày 25/1/2025 (26 tháng Chạp năm Giáp Thìn) đến hết Chủ nhật ngày 2/2/2025 (mùng 5 tháng Giêng). Đợt nghỉ này kéo dài 9 ngày gồm 5 ngày nghỉ Tết và 4 ngày nghỉ hàng tuần.

Dịp nghỉ lễ Chiến thắng 30/4 và Quốc tế lao động 1/5 được nghỉ 5 ngày liên tục từ thứ Tư ngày 30/4 đến hết Chủ nhật ngày 4/5 (làm bù vào thứ Bảy ngày 26/4). Trong khi đó, lễ Quốc khánh năm 2025 có 4 ngày nghỉ từ tứ Bảy 30/8 đến hết ngày 2/9.

Đối với người lao động không thuộc đối tượng ở trên thì người sử dụng lao động quyết định lựa chọn phương án có thể bố trí 1 ngày nghỉ cuối năm và 4 ngày nghỉ đầu năm hoặc 2 ngày nghỉ cuối năm và 3 ngày nghỉ đầu năm dịp Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, khuyến khích người sử dụng lao động áp dụng phương án nghỉ như đối với công chức, viên chức, đồng thời phương án nghỉ phải được thông báo cho người lao động trước ít nhất 30 ngày.

P.H

Người dưới 18 tuổi không được chơi một game quá 60 phút

Theo Nghị định 147/2024/NĐ-CP mới ban hành, quy định người dưới 18 tuổi không được chơi một game quá 60 phút một ngày, nhưng không quá 180 phút khi chơi nhiều game khác nhau.

Ngày 09/11/2024 Nghị định 147 về Quản lý, cung cấp, sử dụng Internet và thông tin trên mạng được Chính phủ ban hành, thay thế cho Nghị định 72/2013 và 27/2018, với nhiều bổ sung về điện kiện cấp giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử. Theo đó, doanh nghiệp cung cấp trò chơi điện tử phải đáp ứng đủ 11 điều kiện về kỹ thuật, tài chính, nhân sự, kết nối.
Nghị định quy định chi tiết về quản lý thời gian người chơi tại điểm e khoản 1 Điều 39 và Điều 48 về cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng: “Có hệ thống thiết bị kỹ thuật bảo đảm quản lý thời gian chơi trong ngày (từ 00h00 đến 24h00) của người chơi dưới 18 tuổi không quá 60 phút đối với từng trò chơi nhưng không quá 180 phút một ngày đối với tất cả trò chơi dành cho người chơi dưới 18 tuổi do doanh nghiệp cung cấp”

Ngoài ra, các doanh nghiệp cung cấp game cần phải có hệ thống thiết bị kỹ thuật bảo đảm hiển thị liên tục kết quả phân loại trò chơi theo độ tuổi đối với tất cả các trò chơi do doanh nghiệp cung cấp khi giới thiệu, quảng cáo và phát hành.

Đáng chú ý, đơn vị phát hành phải có thông tin khuyến cáo “chơi quá 180 phút một ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe” tại vị trí dễ nhận biết ở diễn đàn của trò chơi và trên màn hình thiết bị, với tuần suất 30 phút/lần trong suốt quá trình chơi. 

Bên cạnh việc đảm bảo quản lý thời gian người chơi, tại điểm đ khoản 1 Điều 39 Nghị định 147/2024/NĐ-CP cũng quy định:

Doanh nghiệp cung cấp trò chơi điện tử phải triển khai hệ thống thiết bị kỹ thuật đảm bảo lưu trữ và cập nhật đầy đủ thông tin người chơi tại Việt Nam, bao gồm: họ tên, ngày tháng năm sinh, và số điện thoại di động tại Việt Nam.

Việc xác thực tài khoản người chơi được thực hiện qua số điện thoại di động tại Việt Nam, đảm bảo chỉ những tài khoản đã xác thực mới được phép tham gia trò chơi. Đối với người chơi dưới 16 tuổi, cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp phải đăng ký tài khoản bằng thông tin của mình và có trách nhiệm giám sát, quản lý thời gian chơi cũng như nội dung trò chơi mà người chơi dưới 16 tuổi truy cập. Thông tin người chơi phải được xóa sau khi hết thời hạn lưu trữ theo quy định.

Tại Điều 56 Nghị định 147/2024/NĐ-CP  cũng đưa ra quy định chi tiết về thông tin của người chơi game như sau:

– Khi đăng ký tài khoản sử dụng trò chơi điện tử trên mạng, người chơi phải cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin: Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; số điện thoại di động tại Việt Nam.

– Đối với người chơi dưới 16 tuổi, việc đăng ký tài khoản phải do cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp thực hiện, sử dụng thông tin của họ và đảm nhận trách nhiệm giám sát, quản lý thời gian chơi và nội dung trò chơi mà người chơi dưới 16 tuổi truy cập.

– Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng phải lưu trữ thông tin của người chơi trong suốt thời gian sử dụng dịch vụ và trong 06 tháng sau khi người chơi ngừng sử dụng, đảm bảo người chơi có quyền quyết định việc cho phép hoặc từ chối doanh nghiệp sử dụng thông tin của mình cho mục đích quảng bá, truyền thông hoặc chia sẻ với bên thứ ba.

– Doanh nghiệp phải triển khai hệ thống thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền để xác thực thông tin của người chơi.

Phát triển du lịch gắn với truyền thống lịch sử ở đèo Pha Đin, Điện Biên

Những câu thơ đi cùng năm tháng trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu “Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát…”, về một thời hoa lửa hào hùng đã khiến nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, du lịch tại Điện Biên nhất định phải tìm đến địa danh lịch sử này. Pha Đin - một trong Tứ đại đỉnh đèo của Tây Bắc, thuộc địa phận huyện cửa ngõ Tuần Giáo, giờ đây đã thay đổi rất nhiều, trở thành một điểm sáng trên bản đồ du lịch tỉnh Điện Biên gắn với lịch sử hào hùng trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ và   xây dựng đất nước.

 
  • Những di tích lịch sử nhất định phải đến khi tới Điện Biên

Kết nối tour du lịch với các điểm căn cứ Cách mạng

Tuần Giáo là huyện của ngõ phía Đông Nam của tỉnh Điện Biên, phía Đông giáp huyện Tủa Chùa, Mường Chà; phía Tây giáp huyện Mường Ảng, phía Nam giáp huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La), phía Bắc giáp huyện Mường Chà. Trung tâm huyện có tuyến giao thông Quốc lộ 6 và Quốc lộ 279 đi qua tạo thành ngã ba giao lưu giữa miền xuôi với tỉnh Điện Biên; cách Thủ đô Hà Nội 380km, cách TP Điện Biên Phủ 76km. Với bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc, nhiều cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, truyền thống cách mạng vẻ vang tạo nên dấu ấn riêng của du lịch huyện Tuần Giáo.

du lich pha đin.jpeg -0
Một điểm đón du khách trên đèo Pha Đin, Tuần Giáo, Điện Biên.

Những năm qua, tỉnh Điện Biên nói chung, Tuần Giáo nói riêng đã luôn chú trọng phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch lịch sử gắn với đèo Pha Đin huyền thoại và Anh hùng thiếu niên Vừ A Dính đã đi vào sử sách. Hang Thẳm Púa là nơi đặt Sở Chỉ huy đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ cùng nhiều di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh, cấp Quốc gia như: Hang Thẳm Khương, hang động Há Chớ, Khu căn cứ cách mạng Pú Nhung, hang động Mùn Chung, hang động Bản Khá; suối khoáng nóng Bản Sáng ngay gần trung tâm huyện; kết hợp với nét văn hóa truyền thống phi vật thể, dân ca, dân vũ của các dân tộc, đặc biệt là ẩm thực được chế biến mang đậm bản sắc văn hóa vùng Tây Bắc… đã thu hút nhiều du khách đến thăm quan, trải nghiệm tại Tuần Giáo.

chuẩn bị đón khách pha đin.jpeg -0
Người dân bản địa làm homestay để đón khách du lịch.

Chị Lương Hương Giang cùng gia đình vừa có chuyến du lịch từ Sơn La lên Điện Biên cho biết, mỗi lần đến với Điện Biên, gia đình chị đều dành thời gian để thăm quan tại đèo Pha Đin; check in tại đỉnh đèo để có những tấm hình lưu niệm đẹp, tìm hiểu về mảnh đất lịch sử này, rồi mới di chuyển về chiến trường xưa ở TP Điện Biên Phủ, cũng như Khu Sở chỉ huy chiến dịch Mường Phăng…

Trao đổi với PV Báo CAND, chị Lò Hồng Nhung, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Tuần Giáo cho biết: Hiện nay, huyện có 20 cơ sở lưu trú du lịch với trên 250 buồng, phòng, 20 nhà hàng quy mô phục vụ 20 bàn trở lên; Một số địa điểm đã được đầu tư để thu hút du khách đến với huyện Tuần Giáo như: Điểm du lịch Pha Đin Pass, Pu Pha Đin, Nhà hàng và khách sạn Tây Bắc, nhà nghỉ Pha Đin ...Hằng năm, thu hút trên 40 ngàn lượt du khách đến với Tuần Giáo. Một số dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách du lịch phát triển mạnh như vui chơi giải trí, karaoke, vận tải hành khách và nhiều ngành dịch vụ khác…

check in pha đin.jpeg -0
Một điểm check in tại khu du lịch đèo Pha Đin.

Mặc dù tiềm năng du lịch của huyện là rất lớn, song, bài toán đặt ra cho chính quyền và người dân nơi đây chính là làm sao phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn,  gắn du lịch với lịch sử, tạo nguồn thu cho huyện, góp phần phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân.

Chủ tịch UBND huyện Tuần Giáo Hà Cầm Hồng cho biết, thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính quyền tỉnh Điện Biên cũng như các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, huyện Tuần Giáo đã có những bước khởi sắc trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo cho người dân được sống trong bình yên về ANTT. “Trong những chủ trương, chính sách phát triển của huyện năm 2025 và những năm tiếp theo, chúng tôi sẽ tập trung xây dựng đèo Pha Đin thành khu vực du lịch trọng tâm của huyện Tuần Giáo, gồm: các khu, điểm du lịch sinh thái kết hợp với văn hóa, lịch sử, tâm linh, chợ phiên và xây dựng các Bản du lịch cộng đồng. Từ đó, kết nối với các dịch vụ tại khu vực Trung tâm huyện và các điểm du lịch khác của huyện như Khu Suối khoáng nóng Bản Sáng, Khu Căn cứ Cách mạng Pú Nhung, các di tích đã được xếp hạng trên địa bàn huyện…” đồng chí Chủ tịch UBND huyện Tuần Giáo chia sẻ thêm.

pha đin.jpeg -0
Mỗi năm có hơn 40.000 lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm quan, du lịch tại Pha Đin, Tuần Giáo, Điện Biên.

Phấn đấu đón trên 50.000 lượt khách du lịch mỗi năm

Tuần Giáo hiện xây dựng Bản du lịch cộng đồng điểm tại Bản Lồng, xã Tỏa Tình. Nằm ngay trên khu vực trọng điểm phát triển du lịch của huyện là đèo Pha Đin, thuận lợi với điều kiện thời tiết 4 mùa mát lạnh, cảnh sắc hoang sơ, mộc mạc, yên bình, 100% hộ gia đình sống trong bản là người Mông có truyền thống bản sắc văn hóa độc đáo, Bản Lồng hứa hẹn sẽ là một điểm đến ấn tượng của du khách, đặc biệt là khách quốc tế. Thời gian qua, huyện Tuần Giáo đã tổ chức 5 lớp tập huấn cho nhân dân Bản Lồng chủ yếu về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc gắn với phát triển du lịch và phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân. Trước đó, huyện đã tổ chức cho một số người dân đi tham quan thực tế mô hình du lịch cộng đồng nổi tiếng bản Sin Suối Hồ (Lai Châu)- 1 trong những điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn nhất ASEAN. Bản Lồng chính là bản du lịch cộng đồng dân tộc Mông đầu tiên trên địa bàn tỉnh. 109/109 hộ dân bản Lồng đã chung sức, đồng lòng mở đường để du khách tới check-in, tại các điểm đến đẹp, chụp ảnh, khám phá và trải nghiệm. 

c829d4285155eb0bb244.jpg -0
Du khách check in tại Pha Đin pass.

Ông Mùa A Sùng, Trưởng bản Lồng cho biết, bà con trong bản cùng làm 500m đường đến điểm check-in đẹp để thu hút du khách, bao gồm điểm ngắm bình minh săn mây, ngắm ruộng bậc thang; đường vào hang Cọp; làm bậc thang vào đá mũi Rồng . Sau khi làm xong, người dân tiếp tục trồng hoa dọc đường, tạo cảnh quan đẹp cho bản làng. Một trong 4 hộ tiên phong làm homestay ở bản là gia đình ông Mùa A Dề - người có uy tín của bản, từ nhà ở hiện tại của gia đình đã mở thêm 4 phòng ngủ với 12 giường cùng hệ thống nhà tắm, vệ sinh, trang bị đầy đủ đồ dùng, đáp ứng nhu cầu của khách lưu trú, với tổng chi phí đầu tư 500 triệu đồng.

9fe47628eb55510b0844 (1).jpg -0
Người dân Bản Lồng chuẩn bị tiết mục văn nghệ đón tiếp du khách.

Năm 2025, huyện Tuần Giáo phấn đấu thu hút đầu tư 1 điểm du lịch trở lên. Đón trên 50 nghìn lượt khách/năm, trong đó khoảng 5% khách quốc tế; số ngày lưu trú bình quân của khách du lịch đến Tuần Giáo từ 1 ngày trở lên. Huyện có ít nhất 2 bản văn hóa du lịch cộng đồng được đầu tư, xây dựng. Trên 90% số điểm du lịch, nhà hàng, nhà nghỉ, khách sạn có nhân viên được tập huấn nghiệp vụ về du lịch. Định hướng đến năm 2030 sẽ xây dựng Tuần Giáo trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Điện Biên; thu hút đầu tư từ  2 điểm du lịch trở lên. Đặc biệt, huyện sẽ đón trên 80 nghìn lượt khách/năm, trong đó khoảng 6% khách quốc tế, với số ngày lưu trú bình quân của khách du lịch đến Tuần Giáo từ 2 ngày trở lên; xây dựng thêm 2 bản văn hóa du lịch cộng đồng.100% số điểm du lịch, nhà hàng, nhà nghỉ, khách sạn có nhân viên được tập huấn nghiệp vụ về du lịch…góp phần đưa tỉnh Điện Biên phát triển thành điểm sáng nơi cực Tây Tổ quốc.

Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy

ĐBP - Quán triệt, triển khai tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ đạo hiện nay là thời điểm, thời cơ thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18 về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tổ chức sáng 1/12. Ảnh: TTXVN

Việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng bởi liên quan trước hết tới con người, vị trí việc làm, công tác cán bộ. Thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy đi đôi với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ; thực hiện cắt giảm những vị trí không cần thiết, làm việc kém hiệu quả. Đây là mục tiêu không đơn giản bởi khi thực hiện sẽ ảnh hưởng lợi ích cá nhân, tập thể. Không ít cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị vẫn nương nhờ danh xưng “cán bộ nhà nước”, đi làm theo kiểu “sáng cắp ô đi tối cắp ô về”, hiệu quả công việc không cao. Thực tế qua 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa đạt mục tiêu đề ra. Từ kinh nghiệm rút ra khi thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW cần có “liều thuốc đủ mạnh” khắc phục những hạn chế, cần quyết tâm chính trị rất cao, sự chỉ đạo quyết liệt và giải pháp phù hợp. Hiện nay, Trung ương đã có những tháo gỡ về cơ chế, chủ trương để các bộ, ngành, địa phương trong toàn quốc nghiên cứu, xây dựng phương án tinh gọn bộ máy.

Đây là thời điểm không thể chậm trễ trong việc tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị và Trung ương đã chỉ đạo trong tháng 12/2024 bộ, ngành phải hoàn thành tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình; báo cáo Trung ương phương án kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy trong quý I/2025. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tinh gọn bộ máy, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”; “Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở”; “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”. Từng cấp, từng ngành bám sát kế hoạch để tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình bảo đảm đúng tiến độ. Theo đó, mỗi bộ ngành, địa phương chủ động xây dựng phương án kiện toàn, sắp xếp phù hợp với thực tế ngành, địa phương.

Tinh gọn bộ máy là nhiệm vụ khó nhưng không thể không làm; là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và từng cán bộ, đảng viên. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, phải có “liều thuốc đủ mạnh” để trị căn bệnh cán bộ làm việc hành chính, máy móc; tiêu cực, nhũng nhiễu, “hành dân”, “hành doanh nghiệp”, có lợi ích cá nhân thì mới làm, cố tình làm chậm công việc, xin ý kiến lòng vòng, đổ lỗi cho thể chế, đổ lỗi cho sợ trách nhiệm…

Thời gian tinh gọn bộ máy rất gấp rút song việc triển khai thực hiện phải thận trọng, tiếp thu ý kiến từ tổng kết thực tiễn, tham khảo ý kiến chuyên gia và cả kinh nghiệm của nước ngoài để đề xuất phương án tinh gọn tổ chức bộ máy hiệu quả nhất. Mục tiêu cao nhất của tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị đó là tạo sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống chính trị, phải thật sự hiệu quả, chất lượng. Do đó, việc giảm số lượng người làm trong hệ thống chính trị không thuần túy là giảm cơ học mà sắp xếp, đề xuất phương án sử dụng tối ưu từng vị trí công tác theo hướng tinh gọn nhưng hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Bước đầu, Trung ương đề xuất phương án sáp nhập, sắp xếp một số bộ, ngành tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nghiên cứu đề xuất phương án theo nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực. Thực hiện hiệu quả chủ trương về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phân cấp phân quyền mạnh mẽ cho địa phương, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống lãng phí, chuyển đổi số quốc gia, xã hội hóa các dịch vụ công...

Từ những phân tích trên cho thấy, việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là yêu cầu cấp thiết. Để việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy đảm bảo hiệu quả, mỗi cơ quan, đơn vị phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng và chế độ, chính sách đối với người bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy.

Khi cả hệ thống chính trị trên dưới đồng lòng, đồng thuận thực hiện chủ trương, nghị quyết thì sẽ đạt mục tiêu tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hà Anh

 

Thách thức giảm tỷ lệ sinh con thứ ba ở Mường Chà

ĐBP - Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở huyện Mường Chà trong 9 tháng năm 2024 chiếm 23,7%. Kết quả này dù đã giảm so với các năm trước nhưng Mường Chà vẫn là địa phương có tỷ lệ sinh con thứ 3 cao của tỉnh. Bài toán giảm tỷ lệ sinh con thứ ba ở Mường Chà đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt trong công tác truyền thông thay đổi nhận thức của người dân.   

Công tác truyền thông dân số được cán bộ Trạm Y tế xã Na Sang triển khai vào buổi tối để huy động được nhiều người tham gia.

Thiệt thòi những đứa trẻ

Chúng tôi cùng cán bộ Trạm Y tế xã Na Sang đến nhà anh Lý A Dính, bản Nậm Bó - một trong những hộ đông con của bản với 5 người con. Không gặp được bố mẹ bởi vợ chồng anh Dính đã lên rừng từ sớm, nhưng chúng tôi lại chứng kiến cảnh mấy đứa trẻ nhếch nhác, lếch thếch, đứa lên 8, lên 10 trông em nhỏ đứa lên 3, đứa đang tập đi. Vừa cõng trên lưng vừa dỗ dành đứa em đang khóc ngặt nghẽo, Lý Thị Dinh, 8 tuổi, con thứ 3 của vợ chồng anh Dính thỏ thẻ: “Thỉnh thoảng cháu phải nghỉ học để ở nhà trông em cho bố mẹ đi nương. Nếu bố mẹ không đi nương sẽ không có cái ăn”.

Cũng bởi suy nghĩ chững chạc, lớn hơn cái tuổi lên 8 “ăn chưa no, lo chưa tới” với bé Dinh, mọi việc nhà từ rửa bát, nấu cơm, trông em, chăn bò Dinh đều làm thuần thục. Ở cùng độ tuổi ấy, những việc làm trên đối với nhiều đứa trẻ chỉ là “học kỹ năng sống” thì đối với Dinh đó lại là công việc thường ngày phải làm, “bản năng sinh tồn”, làm nhiều thành quen tay.

Nhà có 6 người con nhưng nguồn thu chỉ trông chờ vào mảnh nương, mỗi vụ cho thu hoạch chưa đến 5 bao ngô. Để có tiền nuôi cả gia đình, vợ chồng phải đi làm thuê tính công từng ngày nhưng chỉ được bữa nay lo bữa mai - đó là hoàn cảnh của gia đình chị Đi Seo Hủi và anh Lò Seo Lú ở bản Huổi Lèng, xã Huổi Lèng. Vì cuộc sống quá khó khăn, hai con đầu của chị Hủi đã phải bỏ học giữa chừng đi làm thuê, phụ giúp bố mẹ nuôi em. Trong ngôi nhà khung sắt được hỗ trợ thông qua chương trình “Mái ấm nông dân nghèo” của vợ chồng chị Hủi, thứ đáng giá nhất có lẽ là vài bao ngô, thóc xếp ở góc nhà.

Khi được hỏi vì sao hoàn cảnh khó khăn mà vẫn sinh nhiều con, chị Hủi giãi bày: “5 đứa con đầu đều là con gái. Cuộc sống cũng khổ lắm rồi nhưng nếu chưa sinh được con trai thì vợ chồng tôi vẫn sinh tiếp. Cũng may, đứa con thứ 6 là con trai nên giờ tôi không sinh nữa”. 

Những đứa trẻ phải chịu thiệt thòi, cuộc sống thiếu thốn đủ đường cũng bởi sinh nhiều con. Vậy nhưng những trường hợp như gia đình chị Hủi, anh Dính ở Mường Chà không phải là ít. Theo thống kê của Trung tâm Y tế huyện Mường Chà, trong 9 tháng đầu năm 2024 tỷ lệ sinh con thứ 3, vi phạm chính sách dân số tại Mường Tùng chiếm 39,4%; Sá Tổng 30%; Ma Thì Hồ 30,6%; Huổi Lèng 29,1%...

Truyền thông thay đổi hành vi

Sinh con đông không chỉ là gánh nặng trực tiếp cho các gia đình mà còn là gánh nặng cho công tác dân số, cho sự phát triển của xã hội. Thời gian qua, huyện Mường Chà đã triển khai nhiều giải pháp nhằm kéo giảm tình trạng sinh con thứ 3 trở lên, trong đó, xác định công tác truyền thông là khâu then chốt.

Vợ chồng chị Đi Seo Hủi cùng đứa con thứ 5 bên ngôi nhà được hỗ trợ.

Xã Na Sang có 10 bản, trong đó 5 bản vùng cao với hơn 95% dân số là người dân tộc thiểu số, dân tộc Mông chiếm gần 60%. Để giảm thiểu tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, mỗi cán bộ Trạm Y tế xã là một tuyên truyền viên, đổi mới phương pháp truyền thông. Trạm y tế thực hiện lồng ghép công tác tuyên truyền với các đợt tiêm chủng, cuộc họp bản và tổ chức vào buổi tối để tập hợp đông đảo người dân tham gia. Từ đầu năm đến nay, Trạm Y tế xã Na Sang tổ chức trên 70 buổi tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về hệ lụy của việc sinh con thứ 3.

Chị Trần Thị Bình, Trạm trưởng Trạm Y tế xã Na Sang chia sẻ: Làm tốt công tác truyền thông nên những năm qua tỷ lệ sinh con thứ 3 trên địa bàn xã có nhiều chuyển biến tích cực. Nếu năm 2020 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở xã là hơn 27% thì đến thời điểm này đã giảm xuống còn 16,2%.

Đẩy mạnh truyền thông, thực hiện kế hoạch hóa gia đình là một trong những biện pháp được chú trọng để điều chỉnh mức sinh. Hàng năm, Trung tâm Y tế huyện Mường Chà phối hợp với Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình duy trì và cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình thường xuyên ở Trạm Y tế các xã, thị trấn; thực hiện cấp biện pháp tránh thai miễn phí (triệt sản, dụng cụ tử cung, thuốc tiêm, cấy tránh thai, thuốc uống tránh thai). Trong 9 tháng đầu năm 2024, toàn huyện đã triển khai đặt vòng tránh thai cho 485 người; cấp miễn phí trên 4.760 vỉ thuốc tránh thai và 5.320 bao cao su…

Nhiều giải pháp đã được triển khai song tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, vi phạm chính sách dân số của huyện Mường Chà vẫn luôn thuộc top đầu của tỉnh. Năm 2023, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của toàn huyện là 25,3% và 9 tháng đầu năm 2024 là 23,7%.

Sinh ra trong gia đình đông con, cuộc sống khó khăn khiến nhiều đứa trẻ phải chịu thiệt thòi.

Cùng với chị Hoàng Thị Thanh Bình, cán bộ phụ trách dân số xã Mường Tùng đi tuyên truyền, vận động người dân tại bản Huổi Chá, nơi 100% hộ dân là dân tộc Mông, chúng tôi thấu hiểu phần nào những khó khăn của cán bộ làm công tác này. Vừa ân cần hỏi han đời sống bà con, vừa tranh thủ tuyên truyền, giải thích về những hệ lụy của việc sinh đông con để người dân hiểu, làm theo. Vậy nhưng khi được hỏi có sinh đông con nữa không thì người dân vẫn trả lời bằng những câu hỏi ngược: Không sinh con thì lấy đâu ra người làm nương? Không đẻ nhiều làm gì có người đi chăn trâu? Không đẻ được con trai sau này chết đi lấy ai làm lý?!...

Trên đường trở về, chị Bình giải thích cho chúng tôi: Những câu nói ấy của bà con chúng tôi nghe quen rồi. Khi đến tuyên truyền, người dân có ngồi nghe, nhưng để bà con thực hiện thì cần cả chặng đường dài bởi những tư tưởng lạc hậu như: “Trời sinh voi sinh cỏ, đông con hơn nhiều của”, trọng nam khinh nữ… vốn đã bám rễ sâu trong tiềm thức của nhiều gia đình.

Ngoài ra, còn do nhiều nguyên nhân khác như: Sự hiểu biết của người dân về chính sách dân số còn hạn chế; tình trạng tảo hôn; chế tài xử lý đối với trường hợp vi phạm chính sách dân số còn nhiều bất cập và gần như không thể xử lý… khiến bài toán giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở Mường Chà chưa có lời giải. 

Với gần 95% dân số là người dân tộc thiểu số, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao, nhận thức người dân khó thay đổi… là những vấn đề Mường Chà cần tìm giải pháp để thực hiện chính sách dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Bài, ảnh: Thu Hằng

 

Đổi thay bên dòng Nậm Mức

ĐBP - Xuôi dòng Nậm Mức, thời điểm này hoa dã quỳ đã nhuộm vàng những vạt đồi, duyên dáng in bóng xuống mặt nước tạo nên cảnh sắc thơ mộng, bình yên. Dù không tấp nập trên bến dưới thuyền như những khu vực khác song cuộc sống của người dân ở xã Nậm Nèn, huyện Mường Chà đã có nhiều đổi thay. Từ trong gian khó, cùng sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước, người dân nơi đây chăm chỉ, cần cù lao động, tận dụng lợi thế mặt nước xây dựng cuộc sống ấm no, đủ đầy.  

Bản làng Nậm Nèn nhìn từ trên cao.

Gia đình ông Màng Văn Niêm, bản Nậm Nèn 2, xã Nậm Nèn gắn bó với vùng đất này qua nhiều thế hệ, kiên trì bám trụ đồi nương và dòng sông Nậm Mức. Sinh ra và lớn lên tại đây, ông Niêm đã chứng kiến biết bao sự thay đổi của mảnh đất quê hương.

Ông Niêm chia sẻ: “Ngày trước, dòng Nậm Mức chảy qua Nậm Nèn chỉ là một dòng nước nhỏ, lòng sông lổn nhổn đá. Nhưng từ khi Nhà máy Thủy điện Trung Thu, nằm trên địa phận xã Pa Ham (huyện Mường Chà) đi vào hoạt động, nước sông dâng cao. Giờ đây, khúc sông uốn lượn qua Nậm Nèn với mặt hồ rộng lớn, yên ả, tạo cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp”.

Người dân nơi đây cũng dần thay đổi cách nghĩ, cách làm. Họ không chỉ chăm chỉ, cần cù làm nương mà còn biết tận dụng tài nguyên mặt nước để phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống.

Bên bờ Nậm Mức, căn nhà của gia đình ông Màng Văn Niêm trở thành địa chỉ dừng chân của nhiều khách đi đường.

Bên bờ Nậm Mức, đã nhiều năm nay, căn nhà nhỏ của gia đình ông Màng Văn Niêm trở thành địa chỉ quen thuộc không chỉ với người dân các xã: Nậm Nèn, Hừa Ngài, Huổi Mí của huyện Mường Chà mà còn cả với người dân 2 huyện Tủa Chùa, Tuần Giáo. Từ một sạp hàng tạp hóa nhỏ, gia đình ông đã mở rộng, trở thành cửa hàng cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho người dân.

Ông Niêm còn mở thêm dịch vụ ẩm thực và trải nghiệm trên sông. Mỗi lần ghé qua Nậm Nèn, du khách không chỉ được thưởng thức những món ăn dân dã mà còn chìm đắm trong không gian bình yên của mặt nước bao la. Nhờ sự cần cù và nhạy bén trong kinh doanh, gia đình ông Niêm đã trở thành một trong những hộ có kinh tế phát triển ở Nậm Nèn.

Tương tự ông Niêm, gia đình ông Lò Văn Quán, bản Nậm Nèn 2 cũng mạnh dạn đầu tư 30 triệu đồng mua thuyền vận chuyển nông sản và đánh bắt cá trên sông. Trước đây khi lòng hồ chưa tích nước, vì không có đường nên người dân canh tác trên nương rất vất vả. Trồng được củ sắn, bắp ngô đã khó song việc vận chuyển để tiêu thụ càng khó hơn. Bà con phải chia nhỏ nông sản rồi gùi về. Từ ngày nước dâng thành hồ rộng, ngô, sắn, dong riềng sau khi thu hoạch được vận chuyển bằng thuyền. Lòng sông còn là nơi người dân khai thác, đánh bắt cá, tôm cho bữa ăn hàng ngày và mang bán, nâng cao thu nhập.

Nhiều người dân Nậm Nèn đầu tư mua thuyền vận chuyển nông sản và đánh bắt cá trên sông.

Ông Lò Văn Quỳnh, Chủ tịch UBND xã Nậm Nèn kể lại thời điểm khi xã mới ra “ở riêng” vào năm 2013, trên cơ sở chia tách từ xã Pa Ham. Khi ấy, đời sống người dân rất khó khăn, giao thông cách trở, không điện lưới quốc gia, không nước sạch, tỷ lệ hộ nghèo chiếm hơn 90%. Bằng sự quan tâm hỗ trợ của Đảng, Nhà nước thông qua chương trình, dự án giảm nghèo cùng sự nỗ lực của chính quyền và người dân, đến nay Nậm Nèn giảm còn 298 hộ nghèo (chiếm 44%), 113 hộ cận nghèo (chiếm 17%).

Phát huy tiềm năng đất đai, Nậm Nèn duy trì phát triển 144ha cây dong riềng, hơn 130ha cây sắn, 262ha ngô, 200ha lúa. Cùng với phát triển đàn gia súc, gia cầm, xã nuôi thả 4ha thủy sản. Hiện nay, Nậm Nèn đã và đang triển khai nhiều dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu, mô hình kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: Sửa chữa đường bê tông nội bản Cứu Táng; trồng ngô lai F1 NK7328 với diện tích 86,6ha tại các bản Nậm Nèn 1, Nậm Nèn 2, Háng Trở, Phiêng Đất B; trồng lúa vụ hè thu giống thuần ADI 168XN1 với diện tích 106ha tại 8/8 bản; xây dựng công trình nước sinh hoạt phân tán với 147 hộ tại 7/8 bản được thụ hưởng…

Một góc trung tâm xã Nậm Nèn.

Với sự đồng lòng, quyết tâm vươn lên của cấp ủy, chính quyền và người dân, tin rằng nơi dòng Nậm Mức chảy qua, Nậm Nèn vẫn là địa bàn xa xôi nhưng không còn cách trở và nghèo khó nữa!

Bài, ảnh: Mai Phương

 

Tỉnh Điện Biên ký thoả thuận hợp tác với thành phố Saint-Petersburg (LB Nga)

Ngày 29/11/2024, trong khuôn khổ chuyến công tác tới Liên bang Nga, đoàn đại biểu tỉnh Điện Biên do đồng chí Trần Quốc Cường, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ dẫn đầu đã tiến hành nhiều hoạt động tại Saint-Petersburg, trong đó có ký kết thoả thuận về hợp tác thương mại-kinh tế, khoa học-kỹ thuật, xã hội và nhân văn; dự khai mạc triển lãm tranh ảnh chuyên đề “Âm vang Điện Biên”. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga

Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh Điện Biên và thành phố Saint-Petersburg. Ảnh Tâm Hằng - PV  TTXVN tại LB Nga 

Đoàn đại biểu tỉnh Điện Biên đặt hoa tại tượng đài Bác Hồ ở Saint Petersburg. Ánh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga
Thống đốc Saint Petersburg Aleksandr Beglov và Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Điện Biên Trần Quốc Cường tham quan triển lãm tranh ảnh chuyên đề “Âm vang Điện Biên”. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga

Thống đốc Saint Petersburg Aleksandr Beglov và Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Điện Biên Trần Quốc Cường tham quan triển lãm tranh ảnh chuyên đề “Âm vang Điện Biên”. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga
Đoàn đai biểu tỉnh Điện Biên làm việc với chính quyền thành phố Saint-Petersburg tại Điện Smolnyi. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB NgaThống đốc Saint Petersburg Aleksandr Beglov và Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Điện Biên Trần Quốc Cường. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga
Thống đốc Saint Petersburg Aleksandr Beglov và Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Điện Biên Trần Quốc Cường. Ảnh: Tâm Hằng - PV TTXVN tại LB Nga

Chủ xe ô tô nộp phạt ở đâu khi bị phạt nguội tại tỉnh ngoài?

Chủ phương tiện, người điều khiển không cư trú tại địa bàn xảy ra vi phạm thì cán bộ chức năng chuyển kết quả vi phạm kèm hình ảnh cho công an cấp huyện nơi người đó cư trú để giải quyết, xử lý vụ việc.

 
 

Ngày 26/11 vừa qua, anh P.V.G (SN 1970, trú phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội) mang xe ô tô biển kiểm soát 30H-829.XX đến trung tâm đăng kiểm ở Hà Nội thì được đơn vị này thông báo phương tiện còn "nợ" một lỗi phạt nguội chưa được giải quyết.

Tiến hành tra cứu, anh G ghi nhận hồi đầu tháng 2 khi lái xe trên quốc lộ 1A qua tỉnh Bình Thuận, phương tiện này bị lực lượng chức năng sở tại phát hiện và lập biên bản với lỗi chạy quá tốc độ quy định.

Chủ xe ô tô nộp phạt ở đâu khi bị phạt nguội tại tỉnh ngoài?- Ảnh 1.

Người vi phạm có thể nộp phạt qua dịch vụ công hoặc đến công an cấp huyện nơi thường trú để được giải quyết.

Gặp tình huống nêu trên, nam tài xế thắc mắc mình có được nộp phạt vi phạm tại cơ quan công an nơi thường trú, hay phải vào tận tỉnh Bình Thuận để giải quyết trực tiếp?

Trả lời nội dung này, một cán bộ cảnh sát giao thông chuyên trách công tác xử phạt vi phạm hành chính ở Hà Nội cho biết, hiện nay, quy trình phạt nguội ô tô và xe máy đang thực hiện theo Thông tư số 15/2022/TT-BCA sửa đổi, bổ sung Thông tư số 65/2020/TT-BCA ngày 19/6/2020.

Cụ thể, sau khi xác minh làm rõ phương tiện và hành vi vi phạm, cán bộ chức năng tại nơi xảy ra vi phạm đó gửi thông báo cho người liên quan theo thông tin cư trú trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để chủ phương tiện, người điều khiển đến trụ sở làm việc.

Trường hợp chủ phương tiện, người điều khiển không cư trú tại địa bàn đó, cán bộ chuyển kết quả vi phạm kèm hình ảnh cho công an cấp huyện nơi người đó cư trú để để giải quyết, xử lý vụ việc vi phạm.

Như vậy, trường hợp của tài xế P.V.G hoàn toàn có thể đến Đội Cảnh sát giao thông - trật tự, Công an quận Hoàn Kiếm để được giải quyết. Khi làm việc, anh G cần xuất trình giấy tờ tùy thân (hoặc qua VNeiD) và giấy đăng ký phương tiện bản gốc.

Sau khi có quyết định xử phạt vi phạm giao thông, tài xế vi phạm có thể nộp phạt theo một trong các cách quy định tại Điều 20 Nghị định 118/2021/NĐ-CP như sau:

Một là, nộp tiền mặt trực tiếp tại Kho bạc Nhà nước hoặc tại ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản được ghi trong quyết định xử phạt giao thông.

Hai là, chuyển khoản vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt.

Ba là, nộp phạt Cổng Dịch vụ công Quốc gia hoặc dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

Hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật về Bình đẳng giới và phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới

Theo đó, Hội thi sẽ được tổ chức vào ngày 01/12/2024 (Chủ nhật). Tại Rạp chiếu phim Điện Biên Phủ, Phường Mường Thanh, Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

Đối tượng tham gia dự Hội thi: Là thành viên các Câu lạc bộ nam giới tiên phong thúc đẩy bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh, gồm: CLB Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, CLB Sở Tư pháp; CLB Công an huyện Điện Biên; CLB xã Noong Luống huyện Điện Biên; CLB xã Pá Khoang thành phố Điện Biên Phủ.

 Hội thi được tổ chức với hình thức sân khấu hóa; với 3 phần thi bắt buộc, gồm:  Thi chào hỏi; Thi trắc nghiệm; Thi tiểu phẩm tuyên truyền. Nội dung tập trung vào quy định pháp luật Bình đẳng giới và phòng ngừa ứng phó bạo lực trên cơ sở giới.

Cơ cấu giải thưởng, gồm: 01 giải nhất: Trị giá 5.000.000đ/giải;  01 giải nhì: Trị giá: 3.000.000đ/giải; 03 giải ba: Trị giá: 2.000.000đ/giải. Giải thưởng phụ: 01 giải cho đội có màn chào hỏi hay nhất: Trị giá 500.000đ/giải; 01 giải cho đội có phần thi tiểu phẩm hay nhất: Trị giá 500.000đ/giải.

Hội thi nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về tầm quan trọng của Bình đẳng giới và phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Vai trò của việc thực hiện các chính sách, pháp luật phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới; đẩy mạnh phong trào tìm hiểu pháp luật, thực hiện các qui định của pháp luật vào cuộc sống. Tuyên truyền sâu rộng kiến thức về phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới tới quần chúng nhân dân trên địa bàn nhằm góp phần giảm thiểu tình trạng bạo lực trên cơ sở giới trong gia đình và xã hội. Tạo sân chơi bổ ích, sôi động, thu hút sự quan tâm của công chức, viên chức và nhân dân trong việc tìm kiến thức pháp luật về Bình đẳng giới và phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Góp phần phát triển, nhân rộng mô hình Câu lạc bộ nam giới tiên phong thúc đẩy bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh.

Hà Chi

  • 1
  • ...
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • ...
  • 87

 

HỆ THỐNG PHẢN ÁNH THÔNG TIN TỈNH ĐIỆN BIÊN      

 

Cơ quan chủ quản: Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên

Địa chỉ: Tổ 04, phường Nam Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Chịu trách nhiệm chính: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên

Điện thoại: 0251.3835.666

Email: paht@dienbien.gov

Chung nhan Tin Nhiem Mang ỨNG DỤNG DI ĐỘNG

TẢI ỨNG DỤNG NGAY

Android IOS

Mô tả hình ảnh 1 Mô tả hình ảnh 2 Mô tả hình ảnh 3

 

 

#

#

#

#

Gửi lại mã xác thực

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập

Vui lòng nhập mã xác thực chúng tôi đã gửi vào số điện thoại của bạn

Vui lòng nhập mã xác thực

Nếu bạn đăng ký thông tin sai! Vui lòng click vào đây để đăng ký lại thông tin tài khoản!
OTP sẽ hết hạn sau

Cập nhật thông tin

Đăng ký tài khoản

Vui lòng chọn đối tượng đăng ký
Vui lòng nhập họ tên
Vui lòng nhập CMND/CCCD
Vui lòng nhập số điện thoại/ Số điện thoại không đúng
Vui lòng nhập mã số thuế
Vui lòng chọn lĩnh vực
Vui lòng chọn loại văn bản
Vui lòng nhập mật khẩu
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập xác nhận mật khẩu/ Xác nhận mật khẩu không đúng
Mật khẩu từ 6 ký tự trở lên, bao gồm các chữ cái viết hoa, viết thường, ký tự số và ký tự đặc biệt

Đăng nhập

Vui lòng nhập tài khoản đăng nhập
Vui lòng nhập mật khẩu
Quên mật khẩu
Nếu tài khoản của bạn chưa kích hoạt? Click vào đây để gửi lại mã xác nhận!